Tìm kiếm trong Blog này

Thứ Năm, 2 tháng 6, 2016

Luật HPVN PHÂN TÍCH VỀ CHẾ ĐỊNH QUỐC TỊCH TRONG LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM

LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014 [PHÂN TÍCH VỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN QUA 4 BẢN HIẾN PHÁP] June 27, 2014 MỞ ĐẦU Đưa ra khái niệm về quyền con người, công dân và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. - - - Khái niệm về quyền con người: Trong khoa học pháp lý, các quyền con người được hiểu đó là những quyền mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các thể nhân. Đây là quyền tối thiểu mà các cá nhân phải có, những quyền mà các nhà lập pháp không được xâm hại. Nhằm mục đích bảo vệ những quyền tự nhiên này của con người, xã hội loài người đã tạo ra cho mình một thiết chế có trách nhiệm đảm bảo những quyền này. Thiết chế này gọi là Nhà nước. Từ đó, đây là đối tượng điều chỉnh quan trọng của Hiến pháp. Mục đích của quy định này như là một bản cam kết của nhà nước phải thực hiện an toàn và sự phát triển của con người. Khái niệm công dân: Là bộ phận dân cư chủ yếu của một Nhà nước, bao gồm những người được xác định lệ thuộc pháp lý đối với Nhà nước đó. Người là công dân của Nhà nước sở tại thì được hưởng đầy đủ những quyền và lợi ích tương xứng và đồng thời phải gánh vác những nghĩa vụ do Nhà nước quy định. Những cá nhân không phải là công dân thì chỉ được hưởng một số quyền lợi và gánh vác những nghĩa vụ không đầy đủ so với những người là công dân theo quy định của pháp luật nước sở tại và các hiệp ước được ký kết hoặc phê chuẩn.  Khái niệm này bắt nguồn từ quan hệ giữa Nhà nước và dân cư (của cá nhân) sống trên lãnh thổ. Quan hệ này thể hiện trong các quyền và nghĩa vụ được quy định tạo thành địa vị pháp lý của cá nhân. Do đó, việc xác định tính công dân (quốc tịch) của một cá nhân là một yếu tố trong việc quy định địa vị pháp lý của cá nhân. Khái niệm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, là những quyền, nghĩa vụ được nhà nước quy định trong Hiến pháp. Những quyền và nghĩa vụ này được hiến pháp quy định cho tất cả mọi công dân, hoặc chỏ cả một tầng lớp, một giai cấp, không quy định cho từng người trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Những quyền này thường được xuất phát từ quyền con người: “được sống, được tự do, được mưu cầu hạnh phúc, không ai có thể xâm phạm”. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là cơ sở chủ yếu xác định địa vị pháp lý của công dân, là cơ sở cho mọi quyền và nghĩa vụ cụ thể của mỗi một công dân. PHÂN TÍCH - Hiến pháp 1946: + Chưa có quy định cụ thể về quyền con người nhưng đã quy định bản chất quyền lực nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Điều 1 HP 1946 quy định: 11 LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014 “Nước Việt nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,giai cấp, tôn giáo” + Hp 1946 ra đời trong những năm đầu tiên của chính quyền nhân dân còn non trẻ, nhưng vẫn dành sự quan tâm to lớn đặc biệt cho vấn đề quyền cơ bản của công dân (dành 18 điều), trình bày tập trung vào 1 chương với tên là “nghĩa vụ và quyền lợi công dân”Chương II (sau chương I là chính thể). + Nội dung quyền con người trong Bản hiến pháp đầu tiên được thể hiện bằng quyền công dân Việt Nam, gồm:  Quyền được bình đẳng: quy định ở điều 6; điều 7 và Điều 8,9.  Quyền được tự do: quy định ở điều 10, điều 11.  Quyền tự do dân chủ: tự do dân chủ trong chính trị, quy định ở điều 7, điều 18, điều 20, điều 21.  Quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội: quy định đầy đủ và chi tiết. Đó là các quyền tư hữu tài sản, quyền lợi của các giới cần lao trí thức (Điều 12) và của những lao động chân tay (Điều 13) được bảo đảm  Như vậy, HP 1946 lần đầu tiên trong lịch sử, địa vị pháp lý của công dân được xác lập gắn liền với dân tộc dành được độc lập. Hiến pháp không những là văn bản quy định việc tổ chức nhà nước mà còn là bản văn bảo đảm thực hiện nhân quyền, tựu trung là quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam. (tham khảo thêm trong sách chuyên khảo) - - - Hiến pháp 1959: + Có số điều khoản dành cho quyền công dân lớn hơn Hiến pháp 1946: 21 điều. + nội hàm các quyền công dân được mở rộng hơn. + Hiến pháp 1959 của cơ chế tập trung quan lieu bao cấp không quy định công dân có quyền tư hữu và quyền tài sản. + Có quy định thêm những nghĩa vụ mới cho công dân so với HP 1946 như “tuân theo kỷ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội, nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng, nghĩa vụ đóng thuế theo pháp luật”. (tham khảo thêm trong sách chuyên khảo) Hiến pháp 1980: + Có số điều khoản cho quyền công dân lớn hơn HP 1959: 29 điều. + Nội hàm các quyền công dân cũng được mở rộng hơn. + Hiến pháp 1959 của cơ chế tập trung quan lieu bao cấp không quy định công dân có quyền tư hữu và quyền tài sản. + Một mặt ghi nhận lại những nghĩ vụ của công dân đã quy định trong Hiến pháp 1959, mặc khác xác định thêm những nghĩa vụ mới của công dân như: “nghĩa vụ phải trung thành với Tổ quốc; nghĩa vụ tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân; giữ gìn bí mật Nhà nước; nghĩa vụ tham gia lao động công ích theo quy định của pháp luật” (tham khảo thêm trong sách chuyên khảo) Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001): + số lượng điều khoản dành cho quyền công dân lớn hơn các bản Hiến pháp trước: 34 điều 12 LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014 - + Nội hàm các quyền công dân được mở rộng và cụ thể hơn. Như Quyền tư hữu tài sản của công dân VN được bảo đảm thì ở Hiến pháp 1992 quyền này được quy định một cách mở rộng thành những yếu tố cấu thành và các loại hình cụ thể của quyền tư hữu (quy định tại điều 58). + bổ sung thêm các quyền của công dân như quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, phục hồi danh dự, khi bị bắt, bị giam giữ và xét xử trái pháp luật; quyền được khiếu nại, tố cáo những hành vitrasi pháp luật của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang hoặc bất cứ cá nhân nào. + Về nghĩa vụ cơ bản của công dân, HP 1992 thừa kế những quy định của các HP trước đây đồng thời cũng bổ sung hoàn thiện thêm 1 bước. Đó là nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc (Điều 76); nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc tỏng đó có việc thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia quốc phòng toàn dân (Điều 77)… + So với HP 1980, HP 1992 có thêm một điều mới dành cho người nước ngoài (Điều 81). Điều này quy định người nước ngoài cư trú ở VN phải tuân theo HP và pháp luật VN. Đồng thời với nghĩa vụ này họ có quyền được Nhà nước VN bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam. (tham khảo thêm trong sách chuyên khảo) Hiến pháp 2013 (sửa đổi, bổ sung HP 1992-được sửa đổi, bổ sung 2001): + Chương "Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân" từ Chương V trong Hiến pháp năm 1992 về Chương II trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 với tên gọi mới: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”  Việc thay đổi vị trí nói trên không đơn thuần là một sự dịch chuyển cơ học, một sự hoán vị về bố cục mà là một sự thay đổi về nhận thức. Với quan niệm đề cao chủ quyền Nhân dân trong Hiến pháp, coi quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lập hiến, thông qua quyền lập hiến của mình, Nhân dân giao quyền cho lập pháp, hành pháp, tư pháp và các thiết chế độc lập khác, thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được xác định ở vị trí trang trọng hàng đầu trong một bản Hiến pháp. Việc thay đổi này là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, thể hiện quan điểm đề cao nhân tố con người của Đảng và Nhà nước ta. + Hiến pháp năm 1992 thừa nhận thuật ngữ "quyền con người", không đồng nhất quyền con người với quyền công dân, nhưng chưa phân biệt được quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong các quy định của Hiến pháp. Khắc phục thiếu sót đó Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã có sự phân biệt sự khác nhau giữa “quyền con người” và “quyền công dân”.  Theo đó, quyền con người được quan niệm là quyền tự nhiên vốn có của con người từ lúc sinh ra; còn quyền công dân, trước hết cũng là quyền con người, nhưng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức là gắn với vị trí pháp lý của công dân trong quan hệ với nhà nước, được nhà nước đảm bảo đối với công dân của nước mình. Chỉ có những người có quốc tịch mới dược hưởng quyền công dân của quốc gia đó, ví dụ như quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý nhà nước. Để làm rõ sự khác biệt này, 13 LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014 tham khảo các công ước Quốc tế về quyền con người và Hiến pháp của các nước, Hiến pháp sửa đổi đã sử dụng từ “mọi người” và từ “không ai” khi thể hiện quyền con người và dùng từ “công dân” khi quy định về quyền công dân. + Trách nhiệm của Nhà nước và những đảm bảo của Nhà nước trong việc ghi nhận, tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, quyền công dân được quy định đầy đủ trong các điều luật. Ngoài nguyên tắc như: “Quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”(Điều 14); ở hầu hết các điều đều quy định trách nhiệm và đảm bảo của Nhà nước như Điều 17: “Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài”; Điều 28: “Nhà nước tạo mọi điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”… và ở nhiều điều khác. + lần đầu tiên giới hạn của các quyền được quy định thành nguyên tắc trong Hiến pháp. Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, có thể hạn chế một số quyền vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức của xã hội, tôn trọng quyền hoặc uy tín của người khác, quyền và tự do của người khác… Hiến pháp sửa đổi năm 2013, theo tinh thần của các công ước quốc tế đã quy định thành nguyên tắc ở Điều 14, khắc phục sự tùy tiện trong việc hạn chế quyền: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự án toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo đó, từ nay không ai được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp cần thiết nói trên do Luật định. + một số quyền mới được bổ sung thể hiện bước tiến mới trong việc mở rộng và phát triển quyền, phản ảnh kết quả của quá trình đổi mới gần 30 năm qua ở nước ta. Đó là các quyền: “Quyền được sống trong môi trường trong lành” (Điều 43), “Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” (Điều 41). + kỹ thuật lập hiến có nhiều đổi mới. Cách thể hiện có những điều riêng quy định về nguyên tắc như Điều 14, Điều 15. Các điều quy định về quyền, tham khảo các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta là thành viên, nội dung các cách diễn đạt đảm bảo tương thích. Ví dụ như Điều 31 quy định: “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự Luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật”. Về quy định này, trước đây chỉ có một điều kiện “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 72 Hiến pháp năm 1992). Như vậy, chỉ cần một điều kiện là có bản án của tòa án đã có hiệu lực thì một người bị coi là có tội và chịu hình phạt. Viết như Hiến pháp sửa đổi năm 2013, một người bị kết tội phải có 2 điều kiện: Một là, phải tuân theo một trình tự luật định và hai là, có bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án. Viết như vậy mới phù hợp với Công ước về quyền con người mà nước ta đã ký kết và thừa nhận. (cần tham khảo thêm trên các bài viết phân tích ở internet) 14 LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014 KẾT LUẬN Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là một trong những chế định quan trọng của Hiến pháp Việt Nam. Với sự ra đời của Hiến pháp 2013 (sửa đổi, bổ sung HP 1992-đã được sửa đổi, bổ sung 2001), chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam đã tiến một bước dài trên con đường đi đến ngày càng hoàn thiện hơn, nhất là về quyền con người; mối quan hệ trách nhiệm giữa công dân với Nhà nước và ngược lại Nhà nước với công dân. LƯU Ý: Bài soạn này chỉ là tài liệu tham khảo nhằm định hướng cách trả lời câu hỏi cho các bạn. Hãy sử dụng cách thành văn riêng của mình, Anh có lời khuyên là các bạn nên dựa vào bài viết tham khảo này rồi viết lại 1 bản theo cách viết của mình. Vì khi làm bài thi, đây là tài liệu tham khảo chung, nếu các bạn chép giống nhau, thì điểm sẽ không mong muốn. Chúc các bạn thi tốt! 15 LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014 CHẾ ĐỘ KINH TẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP VIỆT NAM QUA 4 BẢN HIẾN PHÁP MỞ ĐẦU Một điểm rất khác của Hiến pháp Việt Nam với Hiến pháp của các nước khác là có một số chương riêng quy định về chế độ kinh tế, văn hóa và xã hội.Trong những chế độ quan trọng tạo nên hoạt động của xã hội, chế độ kinh tế chiếm 1 vị trí quan trọng. Sỡ dĩ chế độ kinh tế cũng như các chế độ, văn hóa-xã hội khác phải được quy định trong Hiến pháp, vì xét cho cùng sự phát triển chính trị đều có mục tiêu cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Vì vậy, với tư cách là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia, hiến pháp ít nhiều phải có quy định về chế độ phát triển kinh tế. Vậy chế độ kinh tế là gì và do những yếu tố nào cấu tạo nên? - - Chế độ kinh tế là một hệ thống các quan hệ kinh tế được pháp luật quy định thể hiện định hướng phát triển kinh tế, tính chất và hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất và tổ chức quản lý nền kinh tế. Chế độ kinh tế được hình bằng: chế độ sở hữu, mục đích, chính sách phát triển kinh tế và chế độ quản lý kinh tế. PHÂN TÍCH Chế độ kinh tế của nước ta được xác định là chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để hiểu rõ hơn quy định về chế độ kinh tế, xin đi phân tích các quy định về chế độ kinh tế trong các bản Hiến pháp VN, bao gồm Hiến pháp 1946,Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 (sửa đổi, bổ sung HP 1992) . - - Hiến pháp 1946 (giai đoạn 1945-1954): chế độ kinh tế nước ta còn tự nhiên, tự do với nền kinh tế nhiều thầnh phần, đúng với mục tiêu cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới (cách mạng dân chủ nhân dân) mặc dù không có quy định rõ rang về chế độ kinh tế. Hiến pháp cũng quy định quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm (Điều 12) Hiến pháp 1959 (giai đoạn 1954-1975): Bản hiến pháp này đã xác lập một chế độ kinh tế theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành 1 nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến (Điều 9). Thời kỳ này, Hiến pháp còn thừa nhận tồn tại 4 loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của người lao động riêng lẽ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc. Song nhà nước chủ trương đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng xóa bỏ các hình thức sở hữu phi xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất của nhà nước đối với kinh tế. Sở dĩ có hiện tượng này vì Điều 9 Hiến pháp quy định rõ: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. 16

0 nhận xét:

Đăng nhận xét