(ii)
(iii)
-
(iv)
(v)
-
-
Tạo tiền đề pháp lý hình thành quy phạm mới của LQT.
Bổ sung những khuyết điểm của LQT.
Tác động tích cực đến quan niệm, cách ứng xử của chủ thể trong quan hệ pháp
luật quốc tế.
Các nguyên tắc pháp luật chung: là những nguyên tắc áp dụng phổ biến cho cả
LQT và LQG. (Ví dụ: Nguyên tắc gây thiệt hại phải bồi thường).
Giải thích hay làm sáng tỏ nội dung của quy phạm luật quốc tế.
Nghị quyết của tổ chức liên chính phủ: là các văn kiện của tổ chức quốc tế liên
chính phủ với những giá trị hiệu lực không đồng nhất.
Những Nghị quyết không có giá trị bắt buộc đối với các thành viên có ý nghĩa đối
với việc giải thích và áp dụng các quy phạm Luật Quốc tế hoặc tạo tiền đề cho
việc kí kết và thực hiện ĐƯQT.
Những Nghị quyết có giá trị bắt buộc sẽ là nguồn được viện dẫn đến để giải thích
các quan hệ phát sinh giữa các quốc gia thành viên
Học thuyết: là quan điểm của các học giả nổi tiếng về các vấn đền pháp lý quốc
tế, hình thành thông qua nhiều hoạt động như phân tích các quy phạm pháp luật
quốc tế trình bày hay đưa ra quan điểm, luận cứ về những vấn đề khoa học pháp
lý quốc tế.
Trong những chừng mực nhất định, có giá trị hỗ trợ cho việc xây dựng và thực thi
LQT được thuận lợi.
Hành vi pháp lý đơn phương: là sự độc lập thể hiện ý chí của chủ thể LQT đối
với một vấn đề cụ thể trong quan hệ quốc tế. Có thể là:
Hành vi công nhận nhằm xác nhận một tình hình hoặc yêu cầu nào đó là phù hợp
với pháp luật. (Ví dụ: Hành vi công nhận quốc gia mới).
Hành vi cam kết nhằm tạo ra các nghĩa vụ mới. (Ví dụ: Tuyên bố của chính phủ
Ai Cập năm 1957 về việc cho tàu thuyền qua lại tự do trên kênh đào Xuy-ê).
Hành vi phản đối nhằm thể hiện ý chí, thái độ với một sự việc cụ thể. (Ví dụ:
Những tuyên bố phản đối do bộ ngoại giao một quốc gia thực hiện khi có hành vi
vi phạm LQT từ một quốc gia khác).
Hành vi từ bỏ các quyền hạn nhất định.
44.Mối quan hệ với nguồn cơ bản
45. Nguồn bổ trợ bổ sung cho nguồn cơ bản là tiền đề phản ánh sự phát
triển, hoàn thiện của luât quốc tế. Nguồn cơ bản là cơ sở pháp lý để công nhận sự
tồn tại và hình thành của nguồn bổ trợ.
11
46.
47.
CHƯƠNG 2
ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ - VAI TRÒ CỦA ĐIỀU ƯỚC QUỐC
TẾ TRONG HỆ THỐNG NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ
48.
2.1.
Khái niệm Điều ước quốc tế
49. Theo điểm a, khoản 1, Điều 2 Công ước Viên năm 1969 về Luật
Điều ước quốc tế thì: “Thuật ngữ “điều ước” dùng để chỉ một thỏa thuận quốc
tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều
chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều
văn kiện có quan hệ với nhau và với bất kể tên gọi riêng của nó là gì”.
50. Như vậy, với tư cách là nguồn cơ bản của LQT, ĐƯQT là thuật
ngữ pháp lý dùng để chỉ loại văn bản pháp luật quốc tế hình thành từ sự thỏa
thuận của các chủ thể LQT trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau, thông qua các quy
phạm gọi là quy phạm điều ước.
51. ĐƯQT là tên khoa học pháp lý chung để chỉ các văn bản pháp luật
quốc tế do hai hay nhiều chủ thể LQT ký kết. Trong từng quan hệ điều ước cụ
thể, điều ước có thể được gọi bằng rất nhiều tên gọi khác nhau, như: hiệp ước,
hiệp định, công ước, hiến chương, quy chế... Hầu hết các ĐƯQT song phương
và đa phương điều chỉnh vấn đề chính trị hay kinh tế thường được kết cấu
thành 3 phần: phần lời nói đầu (nêu lý do ký kết, mục đích ký kết, tên các bên
tham gia ký kết...), phần nội dung chính (chia thành các phần, các chương, các
điều nhằm điều chỉnh các lĩnh vực hợp tác) và phần cuối cùng (quy định về
thời điểm, thời hạn có hiệu lực của điều ước, ngôn ngữ soạn thảo, cơ quan lưu
chiểu điều ước...). Về ngôn ngữ của điều ước, các bên thỏa thuận lựa chọn một
hoặc một số ngôn ngữ phù hợp cho công tác soạn thảo và thể hiện sự bình đẳng
giữa các chủ thể tham gia.
52. ĐƯQT có thể là phổ cập hoặc không phổ cập, toàn cầu hoặc khu
vực, đa phương hoặc song phương. ĐƯQT phổ cập là văn bản pháp lí quốc tế
có sự ký kết hoặc tham gia của tuyệt đại đa số các quốc gia trên thế giới, ví dụ:
Hiến chương Liên hợp quốc, các Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại
12
giao và năm 1963 về Quan hệ lãnh sự, công ước năm 1982 về Luật biển.
ĐƯQT đa phương là văn bản pháp lý có sự kết hợp hoặc tham gia của từ ba
quốc gia trở lên. Trong các ĐƯQT đa phương có điều ước đa phương toàn cầu
và khu vực. ĐƯQT đa phương khu vực thường được ký kết trong phạm vi các
quốc gia hoặc có cùng chung khu vực địa lý, hoặc có chế độ chính trị, kinh tế xã hội gần gũi nhau, ví dụ: ĐƯQT trong khuôn khổ các nước ASEAN 1, giữa
các nước thuộc khối NATO2 hoặc khối WARSZAWA3 trước đây. ĐƯQT được
coi là nguồn cơ bản của LQT, vì tuyệt đại bộ phận quy phạm của LQT đều nằm
trong ĐƯQT và do các quốc gia xây dựng nên. Nếu như từ đầu những năm 70
về trước hầu như chỉ có ĐƯQT được ký kết giữa các quốc gia thì ngày nay
xuất hiện ngày càng nhiều ĐƯQT giữa các tổ chức quốc tế liên chính phủ với
nhau, cũng như giữa các quốc gia với các tổ chức quốc tế liên chính phủ.4
2.2.
Điều kiện để Điều ước quốc tế trở thành nguồn của Luật Quốc tế
53. ĐƯQT là nguồn cơ bản của LQT, nhưng về mặt lý luận không phải
mọi ĐƯQT đã có hiệu lực đều được coi là nguồn của nó. Một ĐƯQT được coi
là nguồn của LQT nếu nó thỏa mãn được các yêu cầu sau:
54. Thứ nhất, ĐƯQT phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện và bình
đẳng giữa các chủ thể. Tự nguyện và bình đẳng không phải là nguyên tắc đặc
thù của Luật Điều ước quốc tế, mà là nguyên tắc chung của các ngành luật.
Trên cơ sở đó, các chủ thể của LQT mới thể hiện được ý chí của mình, từ đó
mới tự nguyện thực hiện những cam kết đã thỏa thuận. Với ý nghĩa đó, chỉ khi
ấy các ĐƯQT này mới phát sinh hiệu lực thực tế và mới được coi là nguồn của
LQT.
1ASEAN (Association of Southeast Asian Nations) Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á là một liên minh
chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập
ngày 8 tháng 8 năm 1967
2 NATO là tên tắt của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty Organization) là một liên
minh quân sự thành lập năm 1949 bao gồm Mỹ và một số nước ở châu Âu. Trụ sở chính đặt tại Brussels, Bỉ và
tổ chức thiết lập một liên minh phòng thủ trong đó các nước thành viên thực hiện phòng thủ chung khi bị tấn
công bởi bên ngoài.
3 Khối Warszawa (phiên âm tiếng Việt: khối Vác-sa-va) là một hiệp ước quân sự được ký kết tại Warszawa
(Ba Lan) vào năm 1955 giữa tám nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa ở Trung và Đông Âu, gồm Liên Xô,
Albania (rút ra năm 1968), Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, România và Tiệp Khắc. Liên minh quân sự
này do Liên Xô thành lập và chỉ huy nhằm chống lại khối quân sự NATO, do Mỹ đứng đầu, trong bối cảnh
Chiến tranh Lạnh. Trụ sở của khối đặt tại thủ đô Warszawa của Ba Lan.
4 Trang 27, trang 28 Luật Quốc tế - lý luận và thực tiễn, T.S. Trần Văn Thắng, TH.S. Lê Mai Anh, NXB Giáo
dục.
13
55. Thứ hai, ĐƯQT được ký kết phải có nội dung phù hợp với quy
phạm bắt buộc chung (quy phạm Jus congens 5) của LQT. Nếu nội dung của
điều ước xung đột với những quy phạm Jus congen thì điều ước đó không có
giá trị. Ví dụ, các ĐƯQT có những quy định trái với Hiến chương Liên hợp
quốc, trái với nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia
khác được coi là trái với pháp luật quốc tế và không thể được nhìn nhận là
nguồn của LQT.
56. Thứ ba, ĐƯQT được ký kết phải phù hợp với quy định về thẩm
quyền của pháp luật quốc gia. Theo Điều 46 Công ước Viên 1969 thì một
ĐƯQT sẽ có thể không có giá trị ràng buộc đối với một quốc gia nếu như khi
ký kết đã có sự vi phạm “quá rõ ràng” và liên quan đến một quy tắc có “tính
chất cơ bản” của pháp luật của quốc gia đó. Điều 26 Pháp lệnh ký kết và thực
hiện ĐƯQT của Việt Nam năm 1998 cũng quy định một trong những căn cứ để
Việt Nam đình chỉ hoặc bãi bỏ hiệu lực của ĐƯQT là... “khi có sự vi phạm các
nguyên tắc ký kết” được ghi nhận tại Điều 3 Pháp lệnh.
2.3.
Vai trò của Điều ước Quốc tế trong hệ thống nguồn của Luật Quốc tế
57. Cần phải khẳng định, ĐƯQT không phải là nguồn duy nhất của
LQT. Nhưng tới thời điểm ngày hôm nay, nó vẫn được xem là một trong những
nguồn quan trọng bậc nhất của LQT. Về vai trò của ĐƯQT trong hệ thống
nguồn còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Ở đây, nhóm chúng tôi trình
bày dựa trên Giáo trình Luật Quốc tế của trường Đại học Luật Hà Nội. Và theo
các tác giả biên soạn giáo trình này thì ĐƯQT có 4 vai trò nổi bật trong hệ
thống nguồn của LQT.
58. 2.3.1. Điều ước quốc tế là công cụ, phương tiện quan trọng để duy
trì và tăng cường các quan hệ hợp tác giữa các chủ thể
59. Điều 26 công ước Viên năm 1969 quy định: “mọi điều ước đã có
hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia điều ước và phải được các bên thi
hành một cách thiện chí”. Sự tận tâm, thiện chí của các chủ thể tham gia điều
ước là cơ sở, là bảo đảm quan trọng để chủ thể ký kết tự ràng buộc vào nghĩa
vụ thực hiện các quy định của Luật Quốc tế. Do đó, một điều ước có vai trò
quan trọng để duy trì và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế.
5 Theo Điều 53 Công ước Viên 1969 thì Jus cogens là quy phạm chung, được cộng đồng quốc tế công nhận,
thông qua và áp dụng, không một (hoặc một nhóm) quốc gia nào có quyền thay đổi (hoặc chỉ thay đổi bằng
quy phạm có tính chất tương tự). Vì nó đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng nên khi vi phạm Jus cogens có
thể sẽ gây thiệt hại về quyền và lợi ích của các quốc gia khác nhau trên thế giới, Jus cogens có hiệu lực pháp lý
cao nhất nên các điều ước quốc tế khi ký kết không được trái với các quy phạm này.
14
60. Thế giới hiện nay có hơn hai trăm quốc gia và vùng lãnh thổ. Sau
thế chiến thứ hai, thế giới có xu hướng phân chia hai cực: Liên Xô – Hoa Kì.
Trong thời kì này, người ta không thấy quan hệ giữa các quốc gia phát triển
mạnh mẽ. Thay vào đó là một sự đóng băng trong một cuộc chiến tranh lạnh.
Tuy nhiên, sau khi có sự phá băng trong quan hệ Nga – Mỹ, kéo theo là sự phát
triển trong quan hệ các nước. Đó được xem như là một quy luật tất yếu trong
quá trình phát triển các nước. Quan hệ song phương và đa phương được thiết
lập, phục vụ cho mục tiêu phát triển các nước. Một số quan hệ tiêu biểu mà đến
ngày nay chúng ta thấy vẫn còn tồn tại là: Châu Âu – Hoa Kì, Nhật Bản – Mỹ,
các nước trong cộng đồng ASEAN…
61. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, quan hệ giữa các chủ thể
của LQT ngày một pháp triển và cũng không kém phần phức tạp. Nhưng một
câu hỏi đặt ra: Điều ước đóng vai trò gì trong quan hệ giữa các chủ thể này? Là
nhân tố tiên phong tạo dựng mối quan hệ ấy? Chắc chắn là không. Quan hệ
giữa các chủ thể đã có từ trước, còn điều ước thì có sau. Nó đóng vai trò như
một chất xúc tác hay một chất keo kết dính thêm qua hệ đã hình thành. Không
thể có chuyện một chủ thể (hay nhiều chủ thể) ký kết các ĐƯQT khi mà họ
không có quan hệ hay bất kì hiểu biết gì về nhau. Tất cả đều xuất phát từ
những chủ đích cụ thể.
62. Hãy xem xét trường hợp Việt Nam và ASEAN. Chúng ta thấy, quan
hệ giữa Việt Nam và các nước trong khu vực không phải chỉ được hình thành
và phát triển sau khi ta gia nhập và ký kết các điều ước với hiệp hội ASEAN.
Quan hệ nền móng trước đó đã có những dấu mốc nhất định. Đặc biệt là quan
hệ ba nước Đông Dương trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc những
năm giữa và cuối thế kỉ XX. Năm 1995, chúng ta chính thức gia nhập ASEAN
và ký một loạt các ĐƯQT. Có thể kể tên các điều ước đó như: Hiệp định khung
ASEAN về Vận tải đa phương thức, Hiệp định ASEAN về tạo thuận lợi tìm
kiếm tàu gặp nạn và cứu người bị nạn trong tai nạn tàu biển, 1975… Sau khi
các hiệp ước này được ký kết, quan hệ Việt Nam và ASEAN đã có những bước
phát triển vượt bật. Điều này không chỉ được thể hiện quan những con số kinh
tế mà chúng ta còn thấy qua việc đa phương hóa các mặt hợp tác: từ kinh tế,
văn hóa, xã hội và chính trị. Đặc biệt, với tình hình ngày càng phức tạp trên
biển Đông, Việt Nam và các nước ASEAN lại càng xích lại gần nhau. Chúng ta
có thể khẳng định rõ điều này qua việc một loạt các hiệp ước song và đa
15
phương đã, đang và sẽ được ký kết. Tiêu biểu phải kể đến DOC6, COC7… Song
song với một đó là một loạt các hoạt động giao lưu văn hóa nghệ thuật, tăng
cường sự hiểu biết nhằm tăng cường tình đoàn kết các nước trong khối, nhất là
trong giới trẻ và sinh viên.
63. Hay một ví dụ phổ biến nữa là qua hệ Hoa Kì và Châu Âu. Trong
quá khứ trước đó, người ta không thấy một quan hệ tốt đẹp giữa Mỹ và Châu
Âu. Có lẽ bởi hai lí do. Thứ nhất là về mặt địa lý. Trong thời đại ngày nay,
chúng ta không thấy khoảng cách về địa lý là một trở ngại lớn. Nhưng xét
trong bối cảnh ngày xưa, đó là một vấn đề không hề đơn giản chút nào, nhất là
khi mà khoa học chưa thật sự phát triển. Lý do thứ hai đó chính là cuộc xâm
lược của người Anh. Bởi vì hai lý do trên mà trong một thời gian dài của lịch
sử, quan hệ giữa hai ông lớn thế giới dường như không phát triển. Nhưng cuộc
chiến tranh thế giới, nhất là thế chiến thứ hai cũng như chiến tranh lạnh sau đó,
quan hệ này có sự phát triển thấy rõ. Trong bối cảnh thế giới đầy biến động
cộng thêm nền tảng quan hệ đã được hình thành trước đó, nhiều nhà phân tích
cho rằng quan hệ Châu Âu và Mỹ sẽ còn tiếp tục tăng trưởng trong thời gian
tới.
64. Như vậy qua hai ví dụ đã phân tích, các ĐƯQT không phải là nhân
tố hình thành nên các quan hệ giữa các chủ thể. Mà vốn dĩ các quan hệ này đã
hình thành và phát triển trước đó. Các điều ước này xuất hiện và được ký kết
như một kết quả tất yếu của các quan hệ và giúp cho quan hệ ấy thêm phát
triển và bền chặt hơn mà thôi.
65. 2.3.2. Điều ước quốc tế là khung pháp lý quan trọng, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể luật quốc tế
66. Như đã nêu ở phần trên, quan hệ giữa các chủ thể luật quốc tế ngày
nay phát triển rất mạnh, kéo theo đó còn có cả sự phức tạp và biến đổi khó
lường. Nhìn một các tổng thể, không thể có chuyện một nước lớn giúp không
một nước bé, nếu họ không có lợi lộc gì. Các quan hệ, suy cho cùng đều có chủ
đích và đã được tính toán rất kỹ càng. Bởi vì mục tiêu lợi ích, mang tính cá
nhân của các quốc gia. Mà điều này là cực kỳ nguy hiểm, nhất là khi các chủ
6 DOC: Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (Declaration on Conduct of the Parties in the Bien Dong
Sea)là một văn kiện được các nước ASEAN và Trung Quốc ký kết ngày 4 tháng 11 năm 2002 tại Phnom Penh,
Campuchia nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8. Đây là văn kiện chính trị đầu tiên mà ASEAN
và Trung Quốc đạt được có liên quan đến vấn đề Biển Đông và được coi là bước đột phá trong quan hệ
ASEAN - Trung Quốc về vấn đề Biển Đông.
7 COC: Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (Code of Conduct) Về các thành tố cơ bản của COC, ASEAN đã thể
hiện rõ chủ trương mong muốn COC sẽ phải là một công cụ đóng góp hiệu quả hơn cho hòa bình, an ninh và
ổn định ở Biển Đông. COC đang trong quá trình thương lượng
16
Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2016
VAI TRÒ CỦA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG HỆ THỐNG NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ
01:30
No comments
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét