Tìm kiếm trong Blog này

Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2016

BÀI 5: CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHÔNG PHÂN BIỆT ĐÔI XỬ (MFN)

+ Các ngoại lệ khác(dùng biện pháp cần thiết nhằm mục đích để bảo vệ đạo đức, trật tự công cộng, bảo vệ sinh mạng và cuộc sống con người, môi trường, tài nguyên thiên nhiên,…..) 3. Những loại biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều I:1 ? Thứ nhất, loại biện pháp ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến việc xuất nhập khẩu hàng hóa (mọi khoản thuế quan hoặc khoản thu thuộc bất cứ loại nào nhằm vào hay có liên hệ tới xuất nhập khẩu; mọi khoản thuế quan và khoản thu đánh vào các khoản chuyển khoản để thanh toán hàng hóa xuất nhập khẩu; phương thức đánh thuế hoặc áp dụng phụ thu; mọi luật lệ hay thủ tục xuất nhập khẩu). Thứ hai, loại biện pháp ảnh hưởng đến phân phối hàng nhập khẩu trên thị trường nhập khẩu (các khoản thuế hay khoản thu nội địa; các quy tắc và quy định tác động đến bán hàng, chào bán, mua, chuyên chở, phân phối hoặc sử dụng hàng trên thị trường quốc gia nhập khẩu). 4. Làm cách nào để xác định rằng hai sản phẩm là ‘tương tự’ trong phạm vi Điều I:1 của GATT 1994 ? vì sao WTO không sử dụng thuật ngữ sản phẩm ‘giống hệt’ mà lại là ‘tương tự’ ?  Một số tiêu chí nhằm xác định tính tương tự của sản phẩm, đó là: ● Thành phần, tính chất vật lý sản phẩm ● Tính năng sử dụng cuối cùng của sản phẩm ● Thị hiếu và thói quen của người tiêu dùng ● Phân loại trên biểu thuế quan ở các Công ước quốc tế  Trong nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, luật pháp về sở hữu trí tuệ, cạnh tranh,…. thì việc sử dụng thuật ngữ sản phẩm ‘tương tự’ là hoàn toàn hợp lý. Vì những sản phẩm được sản xuất từ những công 2 ty khác nhau, quốc gia khác nhau, với tỷ lệ thành phần cấu tạo khác nhau thì sản phẩm chỉ có thể giống nhau tương đối chứ không mang tính tuyệt đối. 5. Khi nào một lợi thế được kết luận là đã được áp dụng một cách ‘ngay lập tức’ và ‘vô điều kiện’ trong phạm vi Điều I:1 của GATT? - Một lợi thế được kết luận là đã được áp dụng một cách “ngay lập tức” và “vô điều kiện” trong phạm vi Điều I:1 của GATT là khi có một “lợi thế” của một thành viên WTO dành cho một nước thành viên cụ thể thì “lợi thế” đó sẽ áp dụng ngay lập tức đến tất cả các sản phẩm tương tự bất kể của thành viên thứ ba nào của WTO. Và một khi đã trao “lợi thế” thì không thể yêu cầu quốc gia khác cũng cấp lại một “lợi thế” tương ứng. Vì vậy một nước thành viên WTO không dược đặt thêm hoặc duy trì điều kiện bổ sung nào đối với việc dành lợi thế và cũng không được trì hoãn việc dành lợi thế đó. 6. Các điều kiện nào cần có thể Thành viên WTO không thực hiện nghĩa vụ đãi ngộ tối huệ quốc vì mục đích thành lập một liên minh thuế quan hay khu vực thương mại tự do dưới quan điểm là hỗ trợ thương mại giữa các lãnh thổ thành viên? Thế nào là liên minh thuế quan hay khu vực thương mại tự do định nghĩa theo GATT 1994? - Theo quy định tại Điều XXIV:8(a) của GATT 1994 thì liên minh thuế quan là sự thay thế hai hay nhiều lãnh thổ thuế quan bằng một lãnh thổ thuế quan khi sự thay đổi đó là hệ quả của hai động tác: + Những thuế quan và các quy tắc điều chỉnh thương mại có tính chất hạn chế được triệt tiêu cơ bản trong trao đổi thương mại giữa các lãnh thổ hợp thành liên minh. Tức mức thuế quan giữa các các nước này đều được bỏ đi. + Các thành viên phải áp dụng cơ bản như nhau các mức thuế quan và các quy định hạn chế thương mại đối với các bên thứ ba. 3 - Theo quy định tại Điều XXIV:8(b) của GATT 1994 thì khu vực thương mại tự do được định nghĩa là một nhóm gồm hai hay nhiều lãnh thổ thuế quan mà thuế quan và các quy tắc hạn chế thương mại được triệt tiêu về cơ bản trong trao đổi thương mại các sản phẩm có xuất xứ từ các lãnh thổ lập thành khu vực thương mại tự do. Còn thuế quan và các quy tắc hạn chế thương mại đối với các nước không là thành viên vẫn được giữ nguyên, không có sự thống nhất giữa các nước thành viên. - Để thành viên WTO không thực hiện nghĩa vụ đãi ngộ tối huệ quốc vì mục đích thành lập một liên minh thuế quan hay khu vực thương mại tự do dưới quan điểm là hỗ trợ thương mại giữa các lãnh thổ thành viên thì phải cần có các điều kiện: Thứ nhất, các bên ký kết thừa nhận lòng mong muốn thương mại được tự do hơn thông qua các hiệp định được ký kết tự nguyện. Các bên cũng thừa nhận rằng việc lập ra một liên minh thuế quan hay khu vực thương mại tự do phải nhằm mục đích là tạo thuận lợi cho thương mại giữa các lãnh thổ thành viên và không tạo thêm trở ngại cho thương mại của các thành viên khác với các lãnh thổ này. (theo Điều XXIV:4 GATT 1994) Thứ hai, phải đảm bảo các điều kiện bên trong như đã phân tích về liên minh thuế quan (Điều XXIV:8(a) của GATT 1994) và khu vực tự do thương mại (Điều XXIV:8(b) của GATT 1994) Thứ ba, phải đảm bảo các quy định cụ thể theo Điều XXIV:5 trong việc thành lập một liên minh thuế quan hay khu vực thương mại tự do: + Thuế quan hay các quy định hạn chế thương mại của các thành viên sau khi các khối này được thành lập không được áp dụng với mức cao hơn hay gây hạn chế hơn so với mức tại thời điểm trước khi thành lập. + Mọi hiệp định phải bao gồm một kế hoạch và một chương trình thành lập liên minh thuế quan hay khu vực thương mại tự do trong một thời hạn hợp lý. 4 7. Vì sao WTO lại cho phép ngoại lệ này? Việc cho phép một ngoại lệ như vậy có làm xói mòn các nguyên tắc nền tảng của WTO (về không phân biệt đối xử)? WTO cho phép các ngoại lệ này là vì hợp nhất kinh tế khu vực là tính tất yếu phát triển thương mại quốc tế. Đây là hành động giúp tạo ra các liên kết thương mại giữa các quốc gia gần gũi về vị trí địa lý, chính trị (NAFTA, ASEAN, EU...). Hơn thế nữa còn thúc đẩy các vấn đề thương mại nhạy cảm trong hệ thống thương mại đa phương (môi trường, lao động, đầu tư....). Như vậy, ngoại lệ này không làm xói mòn nguyên tắc nền tảng của WTO cũng như không phân biệt đối xử vì khi thành lập liên minh thuế quan giữa các nước thì các nước thành viên trong liên minh sẽ dành cho nhau những lợi ích nhất định thông qua những cam kết, các nước còn lại sẽ coi đó là động lực thúc đẩy chính đất nước đó tham gia vào các liên minh thuế quan và khu vực thương mại tự do. 8. Tóm tắt án lệ Spain – Unroasted Coffee  Các dữ kiện chính của vụ kiện (Facts) Tên vụ kiện: Biện pháp đánh thuế hải quan của Tây Ban Nha lên cà phê chưa rang Nguyên đơn: Brazil Bị đơn: Tây Ban Nha (TBN) Tranh chấp chính: biện pháp đánh thuế lên cà phê chưa rang do Brazil nhập khẩu vào Tây Ban Nha Vấn đề tranh chấp: Trước ngày 1/3/1980, cà phê chưa rang nhập khẩu vào Tây Ban Nha được xếp vào cùng một nhóm. Sau ngày này, quyết định của chính 5 phủ số 1764/79 đã phân loại mặt hàng này vào năm dòng thuế quan khác nhau như sau: Cà phê nhẹ Columbia (Columbia mild) Miễn thuế Các loại cà phê nhẹ khác Miễn thuế Arập nguyên chất (Unwashed Arabica) 7 % ad valorem Robusta 7 % ad valorem Khác 7 % ad valorem Nhập khẩu cà phê chưa rang từ Brazil vào Tây Ban Nha hầu như là loại A rập nguyên chất. Ngày yêu cầu tham vấn: 26/3/1980, người đại diện của Brazil yêu cầu tham vấn đối với Tây Ban Nha về vấn đề nói trên. 18/6/1980, do sự tham vấn không đi đến kết quả mà 2 bên mong muốn nên Brazil đề nghị thành lập ban hội thẩm theo XXIII:2 GATT 1947 9/10/1980, ban hội thẩm được thành lập Lập luận của Tây Ban Nha: ''''Hiệp định GATT không quy định nghĩa vụ cho các bên ký kết phải tuân thủ một hệ thống phân loại hàng hoá đặc biệt nào”, vì vậy chính phủ TBN có quyền xây dựng 1 biểu thuế quan phù hợp nhất với tình hình thương mại của TBN dựa trên sự phân loại của những tổ chức quốc tế phải kể đến hiệp hội cà phê quốc tế (ICO) Để quyết định xem TBN có vi phạm nguyên tắc đối xử tối huệ quốc đối với cà phê chưa rang do Brazil nhập khẩu vào TBN hay không thì theo TBN phải xét xem sản phẩm cà phê chưa rang đó có phải sản phẩm tương tự với những loại cà phê đề cập ở trên hay không, và có tồn tại sự đối xử kém thuận lợi hơn đối với loại cà phê đó hay không? 6

0 nhận xét:

Đăng nhận xét