LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
+ Các hàng rào bắt nguồn từ các đặc điểm về mặt kinh tế và cấu trúc kinh tế của quốc gia
nhập khẩu: chính sách đầu tư, phát triển nông nghiệp…
Câu 2: GATT 1994 nhìn nhận như thế nào về thuế quan?
GATT 1994 chỉ nhìn nhận thuế quan là một công cụ bảo vệ thị trường.
Nguyên tắc của các đàm phán thuế quan?
- Không phân biệt đối xử
- Có đi có lại
- Công khai và cạnh tranh lành mạnh
- Khước từ một số nghĩa vụ của GATT
- Ưu tiên cho hàng hóa của các nước đang phát triển
Nguyên tắc có đi có lại trong đàm phán thuế quan là gì?
Một số nước quyết định mở cửa thị trường của mình ( hạ thuế nhập khẩu, bỏ bớt các quy
định đối với hàng nhập) có quyền đòi hỏi các thành viên khác có những nhượng bộ tương tự.
Câu 3. Biểu Nhân nhượng Thuế quan là gì ?
Biểu Nhân nhượng Thuế quan là một bản tổng hợp quy định một cách có hệ thống các
mức thuế quan đánh vào các loại hàng hóa chịu thuế khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Biểu Nhân
nhượng Thuế quan có thể xây dựng dựa trên phương pháp tự định hoặc phương pháp thương
lượng giữa các quốc gia.
Quan hệ giữa Biểu Nhân nhượng Thuế quan và GATT 1994 ?
Các quy định về Biểu nhân nhượng thuế quan nằm ở trong GATT 1994. GATT 1994
thành lập tạo tiền đề để hình thành Biểu Nhân nhượng Thuế quan.
Cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam cho xe tay ga (scooter) dung tích 150cc
như thế nào ?
Cam kết này nằm trong Biểu cam kết hàng hóa phi nông sản của Việt Nam khi gia nhập WTO :
--2--
LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Mã hàng : 8711 20 34
Mô tả hàng hóa : Xe scooter – dung tích xi lanh từ 125 trở lên nhưng không quá 150cc.
Thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập : 95%
Thuế suất cam kết cắt giảm : 75%
Thời gian thực hiện : Năm 2012
Phụ thu nhập khẩu : 0%
Câu 4. Các yếu tố cần phải xác định để tìm ra nghĩa vụ thuế quan cụ thể mà một
sản phẩm phải chịu ?
Trị giá tính thuế quan với hàng nhập phải dựa vào giá trị thực của hàng nhập khẩu làm cơ
sở tính thuế quan, hoặc trị giá thực của hàng tương tự, không được phép căn cứ vào trị giá của
hàng có xuất xứ nội hay trị giá mang tính áp đặt hoặc được đưa ra một cách vô căn cứ.
"Giá trị thực" sẽ là giá cả hàng hoá đó hay hàng hoá tương tự được bán hay chào bán
vào một thời điểm và tại một địa điểm được xác định theo luật pháp nước nhập khẩu theo các
điều kiện thương mại thông thường trong điều kiện cạnh tranh đầy đủ. Trong chừng mực hàng
hoá đó hay hàng tương tự bị chi phối bởi số lượng gắn liền với một dịch vụ nhất định, giá cả đưa
ra xem xét sẽ được căn cứ vào những điều kiện như vậy với (i) số lượng so sánh được hoặc các
số lượng xác định không kém phần thuận lợi cho nhà nhập khẩu tính theo giá lô hàng nhập khẩu
lớn nhất trong quan hệ thương mại giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Khi trị giá thực
không xác định, trị giá dùng để tính thuế quan sẽ là trị giá gần nhất tương đương với trị giá nói
trên.
Trị giá để tính thuế quan của bất cứ sản phẩm nhập khẩu nào sẽ không bao gồm bất cứ
khoản thuế nội địa nào, đã được nước xuất xứ hoặc xuất khẩu đã cho hoặc sẽ cho hàng đó được
miễn thuế hay hoàn thuế.
Câu 5: Phân loại thuế quan là gì và WTO quy định thế nào về nó ?
--3--
LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Phân loại thuế quan có nghĩa là theo các tiêu chí khác nhau sẽ có những loại thuế quan
khác nhau, WTO không có qui định cụ thể về phân loại thuế quan. Tuy nhiên khi phân loại sản
phẩm vì mục đích đánh thuế hải quan, các thành viên phải cân nhắc những nghĩa vụ chung của
mình theo các hiệp định của WTO. Các quy tắc cụ thể về phân loại thuế quan được trình bày
trong Công ước Quốc tế về Hệ thống Hài hòa Mô tả và Mã hóa hàng hóa mà hầu hết các thành
viên WTO đều tham gia.
Các nguyên tắc chủ chốt để phân loại thuế quan theo GRI1 ?
Qui tắc 1: Tên cuả các phần, của chương hoặc của phân chương được đưa ra chỉ nhằm
mục đích dễ tra cứu. Để đảm bảo tính pháp lý, việc phân loại hàng hóa phải được xác định theo
nội dung của từng nhóm và bất cứ chú giải của các phần, chương liên quan và theo các qui tắc
dưới đây nếu các nhóm hoặc các chú giải đó không có yêu cầu nào khác.
Qui tắc2: a) Một mặt hàng được phân loại trong một nhóm hàng, thì những mặt hàng đó
ở dạng chưa hoàn chỉnh hoặc chưa hoàn thiện nhưng đã có đặc trưng cơ bản của hàng hóa đã
hoàn chỉnh hoặc hoàn thiện cũng thuộc nhóm đó. Cũng phân loại như vậy đối với hàng hóa ở
dạng hoàn chỉnh hay hoàn thiện hoặc đã có đặc trưng cơ bản của hàng hóa ở dạng hoàn chỉnh
hay hoàn thiện nhưng chưa lắp ráp hoặc tháo rời.
b) Nếu một nguyên liệu, một chất được phân loại trong một nhóm nào đó thì hỗn hợp hay
hợp chất của nguyên liệu hoặc chất đó với những nguyên liệu hoặc chất khác cũng thuộc nhóm
đó. Hàng hóa làm toàn bộ bằng một loại nguyên liệu hay một chất, hoặc làm một phần bằng
nguyên liệu hay chất đó được loại trong cùng nhóm. Việc phân loại những hàng hóa làm bằng
hai loại nguyên liệu hay hai chất trở lên phải tuân theo qui tắc 3.
Qui tắc 3: Khi áp dụng qui tắc 2(b) hoặc vì bất cứ một lý do nào khác, hàng hóa thoạt nhìn
có thể phân loại vào hai hay nhiều nhóm, thì sẽ phân loại như sau:
a) Hàng hóa được phân loại vào nhóm có mô tả cụ thể, mang tính đặc trưng cơ bản nhất
sẽ phù hợp hơn xếp vào nhóm có mô tả khái quát. Tuy nhiên, khi hai hay nhiều nhóm mà mỗi
nhóm chỉ liên quan đến một phần của nguyên liệu hoặc chất chứa trong hàng hóa là hỗn hợp
hay hợp chất, hoặc chỉ liên quan đến một phần của hàng hóa trong trường hợp hàng hóa đó ở
1 GRI hay GIR là Các quy tắc tổng quát giải thích Hệ thống Hài hoà nằm trong danh mục HS (Hệ
thống Hài hoà mô tả và mã hoá hàng hoá) là một bộ phận không thể tách rời của CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ
HỆ THỐNG HÀI HOÀ MÔ TẢ VÀ MÃ HOÁ HÀNG HOÁ
--4--
LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
dạng bộ được đóng gói để bán lẻ, thì những nhóm này được coi như thể hiện đặc trưng ngang
nhau về những hàng hóa nói trên, ngay cả khi một trong số các nhóm đó có mô tả đầy đủ hơn
hoặc chính xác hơn về những hàng hóa đó.
b) Những hàng hóa hỗn hợp bao gồm nhiều nguyên liệu khác nhau hoặc những hàng hóa
được làm từ nhiều bộ phận cấu thành khác nhau, và những hàng hóa ở dạng bộ để bán lẻ, nếu
không phân loại được theo qui tắc 3(a), thì phân loại theo nguyên liệu hoặc bộ phận cấu thành
tạo ra đặc tính cơ bản của chúng.
c) Khi hàng hóa không thể phân loại theo qui tắc 3(a) hoặc 3(b) nêu trên thì phân loại
vào nhóm cuối cùng theo thứ tự đánh số trong số các nhóm tương đương được xem xét.
Qui tắc 4: Hàng hóa không thể phân loại theo đúng các qui tắc trên đây thì được phân
loại vào nhóm phù hợp với loại hàng hóa giống chúng nhất.
Qui tắc 5: Những qui định sau được áp dụng cho những hàng hóa dưới đây.
a) Bao máy tính, hộp đựng nhạc cụ, bao súng, hộp đựng dụng cụ vẽ, hộp tư trang và
các loại bao hộp tương tự, thích hợp hoặc có hình dạng đặc biệt để chứa hàng hóa hoặc bộ hàng
hóa xác định, có thể dùng trong thời gian dài và đi kèm với sản phẩm khi bán, được phân loại
cùng với những sản phẩm này. Tuy nhiên, nguyên tắc này không được áp dụng đối với bao bì
mang tính chất cơ bản nổi trội hơn so với hàng hóa mà nó chứa đựng.
b) Ngoài qui tắc 5(a) nêu trên, bao bì đựng hàng hóa được phân loại cùng với hàng
hóa đó khi bao bì là loại thường được dùng cho loại hàng hóa đó. Tuy nhiên, nguyên tắc này
không áp dụng đối với các loại bao bì mà rõ ràng là phù hợp để dùng lặp lại.
Qui tắc 6: Để đảm bảo tính pháp lý, việc phân loại hàng hóa vào các phân nhóm của
một nhóm phải được xác định phù hợp theo nội dung của từng phân nhóm, các chú giải phân
nhóm có liên quan, và các qui tắc trên với những sửa đổi về chi tiết cho thích hợp, trong điều
kiện là chỉ có những phân nhóm cùng cấp độ mới so sánh được. Theo qui tắc này thì các chú
giải phần và chương có liên quan cũng được áp dụng, trừ khi nội dung mô tả trong phân nhóm
có những yêu cầu khác.
Các quy tắc đó có liên quan đến tranh chấp về quyền và nghĩa vụ từ WTO ?
--5--
LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Cả GATT và các hiệp định khác của WTO không yêu cầu các quốc gia thành viên phải
tuân theo một hệ thống phân loại thuế quan cụ thể nào. Tuy nhiên như đã nói ở trên, các nước
thành viên phải cân nhắc nghĩa vụ chung của mình theo các hiệp định của WTO, đặc biệt là
trường hợp phân loại lại thuế sau khi đã hoàn thành các cam kết nhân nhượng thuế quan. Vì việc
phân loại lại này có thể sẽ dẫn tới sự vi phạm cam kết cơ bản liên quan đến nhân nhượng thuế
quan và làm phát sinh thủ tục tham vấn và đàm phán lại (theo Điều II.5 GATT). Như vậy các quy
tắc của GRI có thể sẽ liên quan đến tranh chấp về quyền và nghĩa vụ từ WTO, nếu các thành viên
để xảy ra trường hợp nêu trên.
Câu 6. Tại sao cơ quan hải quan phải xác định giá trị của hàng hóa nhập khẩu?
Phương pháp chủ yếu và phổ biến nhất để xác định trị giá hải quan của hàng hóa nhập
khẩu là gì?
Hầu hết thuế hải quan được áp dụng là thuế tính theo giá trị (ad valorem), do đó dễ dàng
nhận thấy rằng phương pháp xác định giá trị hàng hóa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tiền thuế phải
nộp. Vì vậy, cơ quan hải quan phải xác định giá trị của hàng hóa nhập khẩu để dựa vào đó làm cơ
sở tính thuế quan và để đảm bảo sự công bằng giữa các nhà nhập khẩu. Theo khoản 2 cuả Điều
VII GATT 1994
Phương pháp chủ yếu và phổ biến nhất để xác định giá trị hải quan của hàng hóa nhập
khẩu là phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng nhập khẩu (Điều 1,
Hiệp định thực thi Điều VII GATT 1994). Về cơ bản, hàng hóa được đánh giá thông qua giá trị
của chúng. Giá trị giao dịch là giá trị thực tế đã thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng hóa, có
điều chỉnh cho phù hợp với các chi phí quy định đã phát sinh mà chưa phản ánh lên giá hàng hóa
ví dụ như tiền hoa hồng, chi phí đóng gói, tiền bản quyền, phí cấp giấy phép.
Câu 7. Quy tắc xuất xứ là gì? WTO quy định thế nào về quy tắc này?
Các quy tắc xác định xuất xứ có thể hiểu là luật, quy định được sử dụng bởi các quốc gia
nhằm xác định nước xuất xứ của hàng hóa (Điều 1.1, Hiệp định về quy tắc xuất xứ). Các quốc
gia có thể sử dụng các quy định này để thực hiện việc phân biệt đối xử trong chính sách thương
mại của họ hoặc dùng các quy định này như một loại rào cản thương mại. Và vì vậy, thuế quan
áp dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu sẽ có thể khác nhau tùy thuộc vào quốc gia mà hàng
--6--
Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2016
BÀI 4: CÁC QUY ĐỊNH VỀ TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG
19:30
No comments
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét