Tìm kiếm trong Blog này

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2016

NCKH Hợp pháp hóa hoạt động mại dâm

các nước trên thế giới và tốc độ phát triển nhanh ,trong đó việc giải quyết việc làm gặp nhiều hạn chế như thiếu vốn sản xuất ,lao động chưa hợp lý…càng làm cho chênh lệch giữa cung và cầu về lao động rất lớn ,gây sức ép về vấn đề giải quyết việc làm trong toàn quốc. Tạo công ăn việc làm ổn định cho người dân là chức trách của các nhà hoạch định chính sách. Dưới góc độ kinh tế, khi một khối lượng lớn việc làm được tạo ra, trước hết sẽ tạo thêm nguồn ngân sách cho đất nước thông qua việc đóng thuế, sau đó bằng sự tồn tại của mình, khối lượng người có công ăn việc làm ổn định đó, cụ thể là những người hành nghề mại dâm lại tác động trực tiếp hoặc gián tiếp ngược lại đối với kinh tế, họ lúc đầu là người cung cấp dịch vụ, sau đó lại trở thành người thu hưởng dịch vụ hoặc trở thành người tiêu dùng trong các lĩnh vực ngành nghề khác ,trở thành một bộ phận của chu trình vận động phát triển kinh tế. Theo Bộ luật lao động 2012 của nước CHXHCN Việt Nam thì việc làm được định nghĩa như sau: “ việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm”. Hợp pháp hóa mại dâm sẽ đáp ứng điều kiện mà Bộ luật lao động qui định để mở rộng mại dâm trở thành 1 nghề trong xã hội Mại dâm nếu được hợp pháp hóa, tức là nhà nước thừa nhận mại dâm là một nghề, thừa nhận người bán dâm là người lao động. Khi đó, người bán dâm sẽ được nhà nước bảo hộ bằng các quy định của pháp luật, họ cũng sẽ có quyền và nghĩa vụ, được đối xử bình đẳng như những người lao động khác, được đóng bảo hiểm, được hưởng các chế độ phúc lợi xã hội… Mặt khác, họ cũng sẽ hạn chế hơn được sự xâm hại từ phía khách hàng. Bởi lẽ, hành vi mua bán dâm là hành vi “nhạy cảm”, lại trong điều kiện lén lút, vụng trộm vì sự ngăn cấm của pháp luật và sự lên án của xã hội, thì mức độ rủi ro bị xâm hại của người bán dâm rất cao, xâm hại về thể xác, về tinh thần, về sức khỏe và về kinh tế. Sự xâm hại đó không chỉ từ phía khách làng chơi, mà còn từ phía tú ông, tú bà những người chủ chứa, môi giới. Để kiếm nhiều lợi nhuận, các chủ chứa tìm mọi cách để khai thác người bán dâm như nô lệ tình dục. Khi bị xâm hại, người bán dâm không thể cầu cứu sự bảo hộ của pháp luật mà đành phải cắn răng chịu đựng. Người bán dâm không phải ai cũng có thể thuê “bảo kê”, nhất là những người bán dâm tự do, do vậy mức độ rủi ro của những người này cao hơn rất nhiều so với những người bán dâm có tổ chức, họ có thể gặp những khách hàng bạo dâm, hoặc bị quỵt tiền, cướp tiền, thậm chí cướp cả tính mạng mà không có bất cứ sự bảo trợ nào. Khi mại dâm được coi là một nghề thì người bán dâm sẽ được quản lý dưới các doanh nghiệp một cách công khai, được nhà nước bảo hộ, tránh được những tình trạng nêu trên. Và vì thế người bán dâm sẽ được bảo vệ, hạn chế tối đa những “tai nạn và rủi ro nghề nghiệp”. Khi người bán dâm được coi là người lao động, những người môi giới mại dâm là những người kinh doanh. Từ đó xuất hiện mối quan hệ lao động và người sử dụng lao động. Các “doanh nghiệp mại dâm” sẽ bảo vệ “nhân viên” dưới việc tuân theo những qui định chăt chẽ của pháp luật. Hợp pháp hóa mại dâm, nghĩa là người bán dâm phải đăng ký, phải công khai danh tính với cơ quan chức năng, giúp các tổ chức bảo vệ phụ nữ, bảo vệ quyền lợi gái mái dâm, công đoàn cho gái mại dâm có thể chính danh hoạt động, và có quyền lực để hoạt động hiệu quả. Các tổ chức bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, phòng tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục của cả nhà nước và nước ngoài (các tổ chức phi chính phủ) có thể tiếp cận được những người hoạt động trong nghề và khách hàng của họ sâu sát hơn. Bên cạnh đó, nếu được coi là một nghề thì người bán dâm sẽ được trả trợ cấp hay tìm 1 công việc khác ổn định cuộc sống khi “về hưu”sớm. 5. Các giải pháp hợp pháp hóa mại dâm ở Việt Nam (Hương) Việc lựa chọn cách kiểm soát mại dâm thích hợp với Việt Nam cần dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia trên thế giới để xác định mô hình phù hợp và đúng đắn với tình hình kinh tế,xã hội của Việt Nam. 5.1. Các mô hình luật pháp về mại dâm trên thế giới: Khái niệm “Mại dâm” hiểu theo nghĩa rộng là: chứa chấp,môi giới,bảo kê,bán dâm, mua dâm, khiêu dâm… Theo điều tra trên 72 nước thì có 4 ô hình mại dâm:  Mô hình “ tội phạm hóa mại dâm” (Prohibition):mô hình này quy định mại dâm là bất hợp pháp và người bán dâm sẽ bị trừng trị một cách nghiêm khắc.Nó được áp dụng khá rộng rãi tại các nước trên thế giới như Trung Quốc,…từ nhiều thế kỷ trước. Tuy nhiên mô hình này đã cho thấy các vấn nạn về tệ nạn xã hội ngày càng tăng cao và không có nguy cơ chấm dứt.  Mô hình hợp pháp hóa mại dâm(Legalization):đối với mô hình này thì Chính phủ quản lý mại dâm chủ yếu dưới hình thức: khoanh vùng, đăng ký, cấp giấy chứng nhận hành nghề và khám sức khỏe bắt buộc đối với người bán dâm. Mô hình này dựa trên cơ sở là quyền con người và rút kinh nghiệm từ các nước theo mô hình “tội phạm hóa mại dâm” và nó được áp dụng tại Hà Lan, Đức,Singapore và một số bang của Úc.  Mô hình “phi tội phạm hóa mại dâm”(Decriminalization):mô hình dựa trên việc gỡ bỏ các tội phạm mại dâm ra khỏi luật hình sự, coi mại dâm là một nghề và không thường chịu sự quản lý gắt gao của nhà nước. Chính sách này giúp giảm phân biệt đối xử với người bán dâm, tăng cường trật tự xã hội và sức khỏe cộng đồng, giảm thiểu mại dâm trá hình. Tuy nhiên, điều này cũng dễ nảy sinh vấn đề chồng chéo về mặt pháp luật. Đây là mô hình hiện được coi là tiên tiến, được nhiều tổ chuhwcs cộng đồng ủng hộ  Mô hình “ không truy tố” hay còn gọi là thực thi có chọn lọc (Non- prosecution): các chế tài về mại dâm không được nêu trong luật nhưng việc quản lý được thực thi thong qua các chính sách dưới luật hoặc “hướng dẫn quốc gia”. Theo mô hình này thì luật mại dâm và các chính sách khác không chủ trương truy tố hay bắt bớ người bán dâm hoặc chủ chứa. Nếu có sự phối hợp tốt giữa chính phủ và các tổ chức cộng đồng, chính sách này sẽ giúp kìm hãm đáng kể tỉ lệ lây nhiễm HIV, giảm tội phạm và bạo lực. Tuy nhiên mô hình này đòi hỏi trách nhiệm cao của ngành công an và sự linh hoạt trong việc thực thi chính sách theo bối cảnh vùng miền. Điển hình thành công là Thái Lan. 5.2. Mô hình phù hợp cho mại dâm tại Việt Nam: Từ những mô hình và kinh nghiệm của các nước trên thế giới chúng ta có thể lựa chọn một mô hình phù hợp để thí điểm tại một khu vực tại Việt Nam. Theo sự phân tích bốn mô hình luật ở trên thì Việt Nam nên áp dụng mô hình luật pháp thứ tư(không truy tố) mà Thái Lan đang áp dụng. Đây có thể là mô hình phù hợp nhất đối với Việt Nam hiện nay và trong tương lai không xa sẽ dần hợp pháp hóa hoạt động này . Tuy nhiên để có thể áp dụng mô hình này thì Việt Nam cần có một cơ chế giám sát thực thi pháp luật một cách có hiệu quả và minh bạch, đồng thời cân nhắc kỹ lưỡng bối cảnh văn hóa vùng, miền.  Các giải pháp hợp pháp hóa mại dâm: Để mại dâm trở thành một nghề lao động hợp pháp thì nhất thiết phải có được những điều kiện sau: _Nhà nước cần có các văn bản quy phạm pháp luật làm căn cứ để hoạt động này được thực thi, đồng thời khung pháp lý phải vững mạnh và thực sự rõ ràng. _Các khu đèn đỏ nếu được xây dựng thì phải đáp ứng được điều kiện luật định về diện tích, vệ sinh, an ninh… Chủ kinh doanh phải có nhân thân tốt và chỉ được tuyển người bán dâm trên 18 tuổi và phải có những quy định rõ ràng về mức lương, thời giờ làm việc… _Các cơ quan y tế có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan khác để đảm bảo tình trạng sức khỏe cho những người bán dâm. Kết luận (Lệ) Nhận thức của con người ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Mại dâm ngày từ thời rất xa xưa đã xuất hiện và tồn tại cho đến ngày nay dù ở chế độ hay quốc gia nào trên thế giới. Đó là việc khách quan, hình thành và phát triển theo nhu cầu của con người. Tuy nhiên, cho đến bây giờ, mại dâm vẫn bị coi là một tệ nạn, trái với luân thường đạo lý của con người, đi ngược lại với sự phát triển của xã hội. Liên hệ ở Việt Nam, hàng ngàn thế kỷ qua, chúng ta đã đưa ra rất nhiều phương án, rất nhiều chính sách và hình phạt nhằm ngăn chặn hoạt động mại dâm, thế nhưng sao đến giờ “mại dâm” không được loại bỏ mà ngày càng lan rộng ra đến mức khó kiểm soát. Chúng ta càng cấm, hành vi mại dâm càng trở nên tinh vi, liều lĩnh hơn và kéo theo những mầm mống gây nguy hiểm cho xã hội như HIV/AIDS, tệ nạn xã hội, … Qua đó, có thể thấy việc nghiêm cấm của chúng ta là chưa có hiệu quả, trong khi đó chi phí bỏ ra để quản lý, ngăn chặn những hành vi mua bán dâm này cực kỳ lớn. Đối với quan điểm “Hợp thức hóa mại dâm ở Việt Nam” không phải để ủng hộ, khuyến khích hoạt động mại dâm phát triển rầm rộ mà chính là cách để chúng ta hạn chế chúng. Với những quy định nghiêm ngặt, chặt chẽ cho vấn đề này sẽ giúp cho Nhà nước nắm rõ hơn tình hình họat động mại dâm, đồng thời sẽ có những biện pháp hữu hiệu để quản lý. Bên cạnh đó, những người hoạt động trong lĩnh vực này sẽ bị ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với ngành nghề, theo đó, mối nguy hiểm cho xã hội sẽ được loại trừ dần.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét