Tìm kiếm trong Blog này

Thứ Năm, 26 tháng 5, 2016

BẢO HỘ TÁC PHẨM VĂN HỌC NGHỆ THUẬT DÂN GIAN THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾ

1.2.3 Các đặc trưng cơ bản của quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian có 4 đặc trưng cơ bản: Tính nguyên hợp, tính tập thể, tính truyền miệng và tính dị bản.Tính nguyên hợp của văn học dân gian biểu hiện ở sự hòa lẫn những hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại. Văn học, nghệ thuật dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà là sự kết hợp của nhiều phương tiện nghệ thuật truyện cổ tích khác nhau, tồn taị dưới ba dạng: ẩn (tồn tại trong trí nhớ của tác giả dân gian), cố định (tồn tại bằng văn tự) và hiện (tồn tại thông qua diễn xướng). Tính tập thể của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian thể hiện ở chỗ chúng là kết quả của sáng tác tập thể( một người khởi xướng và tác phẩm hình thành, sau đó tập thể tiếp nhận và người khác lưu truyền và sáng tạo) . Tính truyền miệng của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian do chúng được lưu truyền từ đời này qua đời khác thông qua hình thức truyền miệng (kể chuyện). Tính dị bản của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là do sáng tác tập thể và nó không được cố định trong một văn bản nên khi lưu truyền sang các vùng không gian khác nhau thì nó dần dà thay đổi. Các đặc trưng trên có liên quan chặt chẽ với nhau tạo ra nét đặc trưng của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian mang trong mình những giá trị to lớn đối với con người: Giá trị thẩm mĩ, giá trị nhận thức và giá trị giáo dục. Mỗi tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian được hình thành dựa trên kho mĩ từ của các dân tộc trên thế giới, câu chữ đơn giản và dễ nhớ, rất nhiều các tác phẩm văn học hiện đại đã sáng tác dựa trên các thể loại của tác phẩm văn học dân gian, thể thơ Lục bát là một điển hình. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian hình thành là nơi quy tụ những bài học kinh nghiệm sống của các dân tộc, những bài học rất gần gũi về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tình yêu giữa người với người,..do đó, nó chứa đựng một giá trị giáo dục và giá trị nhận thức vô cùng sâu sắc, mỗi tác phẩm là một bài học, một giá trị văn hóa tinh túy của con người. Nhìn chung, tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là những sáng tạo tập thể của các tầng lớp dân chúng trong các xã hội, thể hiện đời sống văn hóa, tinh thần của các cộng đồng dân tộc trên thế giới. Chúng mang những đặc trưng khác biệt và những giá trị to lớn như giá trị nhận thức, giá trị nghệ thuật và giá trị giáo dục. Mỗi một cá nhân trong cộng đồng cần chung tay để bảo vệ những tinh hoa văn hóa nhân loại. 1.3 CÔNG ƯỚC BERNE VÀ CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT DÂN GIAN Công ước Bern có nêu:"Trong trường hợp những tác phẩm không được xuất bản và vô danh , nhưng tác giả là một dân tộc của một nước tham gia công ước thì quốc gia đó có quyền chỉ định một cơ quan có thẩm quyền phù hợp để đại diện bảo vệ và thực hiện các quyền của tác giả". Năm 1967 Hội nghị Stockholm cho sửa đổi của Công ước Berne đã thực hiện một nỗ lực để giới thiệu bảo hộ quyền tác giả văn học dân gian cũng ở cấp độ quốc tế. Kết quả là, Điều 15 (4) của Stockholm (1967) và Paris (1971) Hành vi của Công ước Berne có chứa quy định sau: (a) Trong trường hợp công trình chưa được công bố danh tính của tác giả không biết, nhưng nơi có cơ sở để cho rằng tác giả là công dân của một quốc gia của Liên minh, nó sẽ là một vấn đề cho pháp luật tại nước đó để chỉ định cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm đại diện cho tác giả và được quyền bảo vệ và thực thi quyền của mình trong các nước thành viên Liên Hiệp (b) các nước của Liên minh mà làm cho chỉ định theo các điều khoản của quy định này phải thông báo cho Tổng Giám đốc của WIPO bằng văn bản tuyên bố đưa ra thông tin đầy đủ liên quan đến cơ quan được chỉ định do đó Tổng giám đốc tại một lần thông báo cho tất cả các nước khác của Liên minh. " Vào thời điểm Hội nghị Stockholm tiến hành chỉnh lý Công ước Berne, tháng 6 năm 1967, có một sự chuyển biến quan trọng đầu tiên từ phía các nước đang phát triển trong nhận thức về hoàn cảnh đặc biệt của mình. Kể từ năm 1967 một số lượng lớn các quốc gia đang phát triển đã áp dụng Luật Bản Quyền để bảo vệ tác phẩm văn học dân gian( điển hình là Châu Phi , nơi có hơn 30 quốc gia sử dụng Luật Bản quyền và tỏ ra có hiệu quả). Những nước đang phát triển thực hiện các nỗ lực đầu tiên để điều chỉnh việc sử dụng các sáng tạo văn hóa dân gian đã cố gắng để cung cấp sự bảo vệ trong khuôn khổ của pháp luật bản quyền của họ (Tunisia, 1967 và 1994, Bolivia, năm 1968 và năm 1992; Chile, năm 1970, Colombia, năm 1982 ; Congo, năm 1982, Madagascar, 1982, Rwanda, 1983; Benin, 1984: Burkina Faso, 1984; Cộng hòa Trung Phi, 1985, Ghana, năm 1985, Cộng hòa Dominican, 1986, Zaire, 1986, Indonesia năm 1987, Nigeria, năm 1988 và 1992 , Panama, 1994). Trong quá trình chuẩn bị cho Hội nghị Stockholm, người ta đã đề xuất rằng các vấn đề quan tâm của các nước đang phát triển có thể được đưa vào một nghị định thư riêng. Việc thiết lập một chế độ bảo hộ đối với tác phẩm dân gian là vấn đề được cân nhắc nhiều. Mặc dù Nghị định thư được thông qua một cách miễn cưỡng trong phiên họp cuối cùng của Hội nghị Stockholm, nhưng nó cũng đã không có hiệu lực bởi không đảm bảo số lượng phê chuẩn. Nghị định thư này trở thành một Phụ lục của Công ước Paris, được thông qua bởi Hội nghị Sửa đổi Công ước Paris năm 1971. Điều 9 Thỏa ước TRIPs buộc các quốc gia thành viên WTO phải tuân thủ từ “Điều 1 đến Điều 21 Công ước Berne (1971) và Phụ lục đính kèm”. Tháng 4 năm 1973, Chính phủ Bolivia đã gửi một Bản ghi nhớ tới Tổng Giám đốc UNESCO yêu cầu tổ chức này xem xét soạn thảo một văn bản pháp lý quốc tế về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian dưới hình thức một Nghị định thư kèm theo Công ước về quyền tác giả do UNESCO điều hành. Năm 1975, Ban thư ký UNESCO đã tiến hành khảo sát các ý kiến mong muốn có được sự bảo hộ đối với các hình thức văn hóa của người bản địa trên bình diện quốc tế. Năm 1977, Tổng Giám đốc UNESCO đã triệu tập một hội đồng các chuyên gia về bảo hộ pháp lý đối với tác phẩm dân gian. Trong báo cáo năm 1977, Hội đồng đã kết luận rằng vấn đề này đòi hỏi phải có sự khảo sát về xã hội học, tâm lý học, dân tộc học và lịch sử - chính trị trên “cơ sở đa ngành trong khuôn khổ cách tiếp cận tổng thể và có tính lồng ghép”. Theo nghị quyết được thông qua bởi Hội nghị toàn thể UNESCO tại Belgrade, vào tháng 9 - tháng 10 năm 1980 và quyết định ban hành bởi Cơ quan lãnh đạo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tháng 11 năm 1981, một Hội đồng chuyên gia chính phủ về các khía cạnh sở hữu trí tuệ của việc bảo hộ tác phẩm dân gian đã được triệu tập. Sau một loạt các cuộc họp, Hội đồng này đã xây dựng nên Quy định mẫu của WIPO/UNESCO cho luật quốc gia về bảo hộ tác phẩm dân gian chống lại việc khai thác bất hợp pháp và các hành vi gây tổn hại khác, được thông qua bởi hai tổ chức này vào năm 1985. Hội nghị toàn thể UNESCO trong phiên họp thứ 25 năm 1989 đã thông qua một Bản khuyến nghị về bảo hộ văn hóa truyền thống và tác phẩm dân gian, đã đề xuất các biện pháp cần triển khai ở cấp quốc gia nhằm xác định, gìn giữ, bảo hộ và truyền bá các tác phẩm văn hóa của người bản địa. Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT DÂN GIAN VÀ THỰC TIỄN 2.1 MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT DÂN GIAN TRÊN THẾ GIỚI THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾ Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian của các quốc gia trên thế giới nhằm nhiều mục đích khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Nhìn chung các quốc gia trên thế giới khi bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian đều nhằm một số những mục đích cơ bản. Thứ nhất, sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian vì mục đích chung, không chỉ vì các mục đích vật chất, mà còn là sự ghi nhận về tư liệu và tranh ảnh của các xã hội truyền thống nhằm duy trì những giá trị, những nét đẹp truyền thống mà nó mang lại. Thứ hai, nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển một cách lành mạnh do lo ngại về ảnh hưởng tiêu cực của việc phát triển kinh tế và văn hoá nước ngoài tới sự toàn vẹn của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Thứ ba, vấn đề bồi thường cho sự chiếm đoạt và xâm hại văn hoá. Thứ tư, đặt ra vấn đề vật chất khi thu phí sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ hơn về các mục đích bảo hộ chúng trên thế giới. Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhằm duy trì những giá trị mà nó mang lại: Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian chứa đựng nhiều giá trị to lớn đối với con người: giá trị giáo dục, giá trị nhận thức và giá trị thẩm mĩ. Tác phẩm văn học dân gian là một kho kiến thức đồ sộ của các dân tộc trên thế giới, nhìn vào một tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian ta dễ dàng nhận thấy lối suy nghĩ, nét văn hóa của dân tộc đó đồng thời một tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian còn có tác dụng giáo dục sâu sắc, hình thành tinh thần lạc quan, nhiều phẩm chất tốt đẹp như lòng yêu nước, tình yêu thiên nhiên, lòng vị tha...Một tác phẩm dân gian được hình thành chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật lớn lao, với văn phong dễ thuộc, dễ ghi nhớ, sử dụng nhiều hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ làm cho tác phẩm càng thêm độc đáo, người nghe dễ cảm nhận những tác phẩm như những câu chuyện thần thoại Hy Lạp, các điệu múa, điệu hát của các bộ lạc Châu Phi, Châu Mỹ,... Với những giá trị quý báu như thế nên tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian cần được bảo hộ. Bên cạnh đó bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhằm duy trì những nét đẹp truyền thống và tinh hoa của các dân tộc trên thế giới. Mỗi dân tộc trên thế giới có những nét văn hóa đặc trưng khác nhau, chúng đươc lưu giữ trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nói riêng và các hình thức khác nói chung, thông qua một tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian ta có thể thấy những phong tục, tập quán, cách sống của mỗi dân tộc. Phần lớn những nét văn hóa đó được bộc lộ qua tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian, nó là kết tinh của truyền thống văn hóa của các dân tộc vì thế bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian cũng là bảo hộ truyền thống văn hóa của các dân tộc. Chúng được thể hiện qua các trò chơi dân gian, các phong tục tập quán, các nghi lễ truyền thống như phong tục cưới hỏi, nghi lễ đón năm mới, đón Giáng sinh trên thế giới,... Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhằm bảo đảm sự phát triển một cách lành mạnh của chúng. Vì tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian mang tính chất truyền miệng và dị bản, do đó phải bảo đảm chúng phát triển đúng và duy trì được nét đẹp văn hóa mà chúng mang theo. Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian để giúp việc phát triển các tác phẩm này một cách toàn vẹn, sao cho các hành động khai thác, chuyển thể các tác phẩm văn học dân gian không làm ảnh hưởng, phương hại tới nét đẹp, bản sắc văn hóa mà nó mang theo, nhưng cũng không được kìm hãm sự sáng tạo của bản thân những người phát triển chúng. Khi bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nghĩa là có một cơ chế pháp luật để ngăn chặn các hành vi xâm phạm tới chúng. Ngày nay trước sức mạnh của toàn cầu hóa, sự phát triển kinh tế ảnh hưởng không nhỏ tới sự tồn tại của các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian do đó cần có một cơ chế để bảo vệ chúng, tránh bị làm phương hại và mai một dưới những luồng ảnh hưởng của kinh tế thị trường. Đồng thời thể hiện được sự quan tâm của chính quyền tới đời sống xã hội, đời sống văn hoá của người dân, góp phần ổn định trật tự xã hội. Việc bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian sẽ đề ra việc cấp phép sử dụng, số tiền thu được từ việc cấp phép đó sẽ góp một phần vào việc tu bổ, phát triển tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Bảo hộ tác phẩm văn học dân gian sẽ tạo ra lợi ích cho cộng đồng lưu giữ chúng, khi có ai muốn khai thác một tác phẩm văn học dân gian thì đồng nghĩa với việc họ phải bỏ ra một khoản phí để sử dụng chúng góp phần vào sự duy trì sự tồn tại của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nói riêng và văn hóa truyền thống nói chung. 2.2 ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT DÂN GIAN Theo Điều 3 công ước Berne có ghi nhận: Điều 3 Tiêu chuẩn bảo hộ: 1. Quốc tịch của tác giả; nơi công bố tác phẩm; 2. Nơi thường trú của tác giả; 3. Tác phẩm đã công bố; 4.Tác phẩm công bố đồng thời. 1. Được bảo hộ theo Công ước này: a. Các tác giả là công dân của một trong những nước là thành viên của Liên Hiệp cho các tác phẩm của họ dù đã công bố hay chưa; b. Các tác giả không là công dân của một trong những nước là thành viên của Liên Hiệp cho những tác phẩm họ công bố lần đầu tiên ở một trong những nước là thành viên Liên Hiệp hay đồng thời công bố ở một nước trong và một nước ngoài Liên Hiệp. 2. Các tác giả không là công dân của một nước thành viên Liên Hiệp nhưng có nơi cư trú thường xuyên ở một trong những nước trên, cũng sẽ được Công ước này coi như là tác giả công dân của nước thành viên đó. 3. "Tác phẩm đã công bố " là những tác phẩm đã được phát hành với sự đồng ý của tác giả, không phân biệt phương pháp cấu tạo các bản sao, miễn là các bản đó đủ để đáp ứng như cầu hợp lý của quần chúng, tuỳ theo bản chất của tác phẩm. Không được coi là công bố: sự trình diễn một tác phẩm sân khấu, nhạc kịch hay điện ảnh, hoà tấu một tác phẩm nhạc, đọc trước công chúng một tác phẩm văn học, phát thanh hay truyền hình một tác phẩm văn học hay nghệ thuật, triển lãm một tác phẩm nghệ thuật hay xây dựng một tác phẩm kiến trúc. 4. Được xem là công bố đồng thời ở nhiều nước: những tác phẩm được công bố ở hai hay nhiều nước trong thời gian 30 ngày kể từ lần công bố đầu tiên. Ngoài ra thì hiệp định TRIPS cũng thừa nhận tuân thủ các điều kiện này theo Công ước Berne về điều kiện bảo hộ cho tác phẩm của các tác giả.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét