Đối với các tranh chấp này, các bên đương sự không có quyền thỏa thuận về việc yêu cầu
Tòa án nơi không có bất động sản giải quyết.
Đối với tranh chấp không phải bất động sản thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là
Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc hoặc nơi bị đơn có trụ sở. Ngoài ra các bên có quyền
thỏa thuận chọn Tòa án nơi nguyên đơn cư trú hay có trụ sở giải quyết hoặc đối với
trường hợp theo Điều 36 BLTTDS thì nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết.
Sự thỏa thuận của các đương sự phải bằng văn bản và phải phù hợp với quy định của
pháp luật. Văn bản thỏa thuận phải được nộp cho Tòa án cùng với đơn khởi kiện và các
tài liệu chứng cứ khác để làm căn cứ xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án.
Kiểm tra điều kiện về thẩm quyền của Tòa án, Thẩm phán cần đối chiếu với địa chỉ
của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; đối tượng tranh chấp được
trình bày trong nội dung đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm
theo đơn khởi kiện.
4. Điều kiện về hòa giải tiền tố tụng
Đối với những tranh chấp mà pháp luật quy định phải yêu cầu các cơ quan khác giải
quyết trước khi khởi kiện tại Toà án thì chủ thể khởi kiện phải yêu cầu và được các cơ
quan này giải quyết. Chẳng hạn như một số tranh chấp lao động cá nhân mà Hội đồng
hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động hoà giải không thành hoặc không giải
quyết trong thời hạn; tranh chấp lao động tập thể về quyền giữa tập thể lao động với
người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật lao động sau khi Chủ tịch UBND
cấp huyện đã giải quyết mà hai bên vẫn còn tranh chấp hoặc hết thời hạn theo quy định
mà không giải quyết. Các tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 136
Luật Đất đai năm 2003 (nay là Điều 203 Luật Đất đai năm 2013) phải hoà giải tại UBND
xã, phường, thị trấn trước khi khởi kiện ra Toà án. Theo quy định tại điểm b điều 8 Nghị
quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 hướng dẫn như sau:
11 / 16
- Đối với tranh chấp ai có quyền sử dụng đất thì phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 135 của Luật
Đất đai.
- Đối với tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch
liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản
chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì không phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp nhưng vẫn phải thực hiện thủ tục hoà
giải theo quy định của BLTTDS. Như vậy, theo hướng dẫn này thì không phải tất cả các
tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất đều phải hòa giải cơ sở trước khi khởi kiện ra
Tòa án.
5. Điều kiện do pháp luật nội dung quy định hoặc các bên có thỏa
thuận
Theo quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 168 BLTTDS, Tòa án trả lại đơn khi “chưa
đủ điều kiện khởi kiện”. Tại khoản 3 điều 8 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn
“Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp các đương sự có thoả thuận hoặc pháp luật
có quy định về các điều kiện để khởi kiện (kể cả quy định về h́nh thức, nội dung đơn kiện),
nhưng đương sự đã khởi kiện khi còn thiếu một trong các điều kiện đó”. Do đó, kiểm tra
điều kiện khởi kiện ngoài việc nghiên cứu các quy định của pháp luật nội dung còn phải
kiểm tra xem các bên tranh chấp có thỏa thuận về điều kiện khởi kiện không? Ví dụ: các
bên tranh chấp thỏa thuận trong hợp đồng nếu phát sinh tranh chấp thì các bên phải có
trách nhiệm cùng nhau thương lượng và chỉ khởi kiện tại Tòa án nếu thương lượng không
thành. Như vậy, trong trường hợp này, Tòa án chỉ thụ lý nếu các bên tranh chấp đã có sự
thương lượng mà không đạt được kết quả.
Một số tranh chấp đặc thù cần phải đáp ứng một số điều kiện riêng biệt Toà án mới
thụ lý giải quyết vụ án. Vì vậy, tương ứng với mỗi một loại tranh chấp, thẩm phán cần
phải nghiên cứu luật nội dung để kiểm tra điều kiện do pháp luật nội dung quy định. Đối
với tranh chấp hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 2 Điều 85 Luật hôn nhân và gia
12 / 16
đình năm 2000 thì trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng
tuổi thì người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn. Tranh chấp về bồi thường thiệt
hại do người thi hành công vụ của nhà nước gây ra, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết
thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường quy định tại Điều 20 của Luật Trách nhiệm
bồi thường nhà nước mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc kể
từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định nhưng không đồng ý thì người bị thiệt
hại có quyền khởi kiện ra Toà án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết bồi thường. Đối
với một số loại tranh chấp như đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ… theo quy định
của Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27/7/2006 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở liên quan đến người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia thì khi chủ nhà muốn lấy lại phải thực hiện
thủ tục thông báo bằng văn bản cho phía bên kia trước một thời hạn từ 6 đến 12 tháng.
Nếu đương sự khởi kiện mà chưa thực hiện việc thông báo cho bên kia thì Tòa án trả lại
đơn khởi kiện. Đối với việc khởi kiện các cơ quan báo chí thì theo quy định của Điều 9
Luật báo chí, Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 của Chính phủ quy định chi
tiết Luật báo chí thì phải yêu cầu cơ quan báo chí giải quyết việc đăng tin không đúng, sai
sự thật rồi mới được khởi kiện tại Tòa án.
6. Điều kiện về nộp tiền tạm ứng án phí trừ trường hợp được miễn
nộp toàn bộ tiền án phí hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí
Tạm ứng án phí là khoản tiền mà người khởi kiện có nghĩa vụ phải nộp để Tòa án
thụ lý giải quyết vụ án. Tòa án chỉ thụ lý vụ án khi người khởi kiện xuất trình biên lai tạm
nộp án phí dân sự sơ thẩm. Nếu người khởi kiện không nộp hoặc nộp không đủ tiền tạm
ứng án phí sơ thẩm thì Tòa án không thụ lý vụ án. Qua kiểm tra đơn khởi kiện và các tài
liệu, chứng cứ kèm theo, xác định được người khởi kiện đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện
nêu trên, Thẩm phán tiến hành thông báo nộp tạm ứng án phí sơ thẩm cho người khởi
kiện biết (trừ trường hợp họ được miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí) theo mẫu số 04 ban hành
13 / 16
kèm theo Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP để họ làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí
trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 171 BLTTDS thì Toà án dự tính số tiền tạm ứng án
phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Như
vậy là cùng với thông báo nộp tiền tạm ứng án phí thì Thẩm phán phải có phiếu báo ghi
số tiền tạm ứng án phí để người khởi kiện làm căn cứ nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự.
Để xác định người khởi kiện có phải nộp tiền tạm ứng án phí cũng như mức tiền tạm ứng
án phí mà người khởi kiện phải nộpThẩm phán cần phải căn cứ vào nội dung tranh chấp,
yêu cầu của người khởi kiện cũng như các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, cụ thể
là Điều 127, 130, 131 BLTTDS và Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án. Nếu yêu cầu của
người khởi kiện bằng hiện vật thì Thẩm phán cần yêu cầu họ tự xác định giá trị tài sản
tranh chấp, nếu phù hợp với giá thị trường và quy định của pháp luật thì Thẩm phán chấp
nhận, nếu không phù hợp Thẩm phán phải xác định lại.
Người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí trong một thời hạn được nêu trong
thông báo nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
giấy báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm
ứng án phí. Đối với trường hợp có trở ngại khách quan hoặc bất khả kháng thì thời gian
do có trở ngại khách quan hoặc bất khả kháng không tính vào thời hạn nộp tiền tạm ứng
án phí (khoản 2 Điều 171; điểm d, khoản 1 Điều 168 BLTTDS). Trở ngại khách quan “là
những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động như: thiên tai, địch họa, nhu cầu chiến
đấu, phục vụ chiến đấu. “Bất khả kháng” là sự kiện xảy ra một cách khách quan không
thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép. Ví dụ: do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện... nằm
ngoài tầm kiểm soát của người khởi kiện nên họ không thể thực hiện được việc nộp tiền
tạm ứng án phí.
Tuy nhiên, sau khi hết thời hạn 15 ngày theo quy định tại khoản 2 Điều 171
BLTTDS) mà người khởi kiện không nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí thì Thẩm phán
cần lưu ý nội dung hướng dẫn tại Điều 10 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP như sau:
14 / 16
phải ấn định cho người khởi kiện trong thời hạn 7 ngày, người khởi kiện phải nộp cho
Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, hết thời hạn này người khởi kiện mới nộp cho
Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí thì tùy từng trường hợp mà xử lý như sau: tiến
hành thụ lý vụ án đối với trường hợp chưa trả lại đơn khởi kiện, trường hợp đã trả lại đơn
khởi kiện thì yêu cầu họ nộp lại đơn khởi kiện và tiến hành vào sổ thụ lý vụ án. Hết thời
hạn 7 ngày mà người khởi kiện không nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí thì
Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho họ biết lý do về việc không thụ lý vụ án.
Đối với trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí (miễn
nộp toàn bộ hoặc một phần tiền tạm ứng án phí) thì họ phải có đơn đề nghị có đầy đủ các
nội dung theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án. Nộp kèm theo đơn là
các tài liệu, chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được miễn. Đơn đề nghị miễn nộp
tiền tạm ứng án phí phải có xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi người khởi kiện
cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người khởi kiện làm việc đối với trường hợp người có
khó khăn về kinh tế. Do đó, Thẩm phán phải kiểm tra đơn đề nghị miễn nộp tiền tạm ứng
án phí và các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn đối chiếu với các quy định của pháp luật về
án phí Tòa án để quyết định chấp nhận việc miễn tiền tạm ứng án phí.
Như vậy, kiểm tra điều kiện thụ lý vụ án dân sự bao gồm việc kiểm tra 06 điều kiện
nêu trên. Các điều kiện này được quy định tại Điều 168 BLTTDS.
Theo quy định tại Điều 168 được sửa đổi, bổ sung thì trong các trường hợp mà Toà
án trả lại đơn khởi kiện không có trường hợp hết thời hiệu khởi kiện. Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP cũng đã hướng dẫn: Trường hợp trước đây, Tòa án đã trả lại đơn khởi
kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết mà đương sự có yêu cầu khởi kiện lại, thì Toà án
thụ lý vụ việc và đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí nếu không thuộc diện được miễn
theo quy định pháp luật.
Trường hợp đã có bản án, quyết định của Toà án bác yêu cầu hoặc đình chỉ vì lý
do thời hiệu khởi kiện đã hết, thì Toà án căn cứ điểm b khoản 1 Điều 168 của
BLTTDS để trả lại đơn khởi kiện và giải thích cho họ biết họ có quyền làm đơn đề
15 / 16
nghị xem xét vụ việc theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định
nêu trên.
Như vậy, thời hiệu khởi kiện không phải là điều kiện để xác định việc thụ lý vụ án
dân sự. Đây là điểm thay đổi mang tính chất đột phá so với BLTTDS 2004.
16 / 16
Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2016
ĐIỀU KIỆN THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ
20:30
No comments
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét