- Cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật hay
thực vật;
- Cần thiết để bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và các quy tắc không trái với
các quy định của Hiệp định GATT;
- Liên quan tới các sản phẩm sử dụng lao động của tù nhân;
- Bảo vệ di sản quốc gia có giá trị nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ;
- Liên quan tới việc gìn giữ nguồn tài nguyên có thể bị cạn kiệt;
4. Tóm tắt Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm trong vụ kiện US –
Shrimp?
4.1. Câu hỏi pháp lý:
Hoa Kì đã áp dụng biện pháp cấm nhập khẩu tôm và các sản phẩm tôm
được đánh bắt gây hại đến loài rùa biển dựa trên cơ sở qui định tại Mục 609 của
Luật Công 101-162 có thể được biện minh theo ngoại lệ chung Điều XX(g) của
GATT 1994 hay không?
4.2. Quyết định của cơ quan phúc thẩm:
Biện pháp của Hoa Kì nằm trong phạm vi các ngoại lệ Điều XX(g) GATT
1994, cụ thể là về “việc gìn giữ nguồn tài nguyên có thể bị cạn kiệt” nhưng biện
pháp này lại không đáp ứng được các yêu cầu tại đoạn mở đầu của Điều XX
GATT 1994 về việc “không được tạo ra phân biệt đối xử độc đoán hay phi lý
giữa các nước có cùng điều kiện như nhau” hay tạo ra “một sự hạn chế trá hình
đối với thương mại quốc tế”, và vì vậy biện pháp này không hợp lý theo Điều
XX GATT 1994.
4.3. Sự kiện
Năm 1987, Hoa Kì đã ban hành những qui định chiếu theo Đạo luật về
những giống loài bị nguy hiểm 19739, trong đó yêu cầu tất cả tàu lưới kéo tôm ở
Hoa Kì phải chấp nhận những thiết bị loại trừ rùa biển (TEDs) hoặc những hạn
chế khắt khe trong những vùng đặc thù nơi có tỷ lệ rùa biển bị chết cao đáng kể
trong những vùng khai thác tôm.
2
Ngày 21 tháng 11 năm 1989 Mục 609 của Luật Công 101-162 được Hoa
Kì ban hành, trong đó qui định: Đoạn 609(a) yêu cầu đại diện của Hoa Kì thỏa
thuận với các quốc gia khác “nhằm bảo vệ và bảo tồn loài rùa biển vì sự phát
triển của các hiệp định song phương và đa phương”. Đoạn 609(b)(1) “áp đặt một
lệnh cấm nhập khẩu tôm được đánh bắt bằng những công nghệ đánh bắt có tác
hại xấu tới loài rùa biển” và Đoạn 609(b)(2) qui định rằng lệnh cấm này sẽ
không áp dụng cho các quốc gia được cấp phép. Theo bản hướng dẫn 1996, bất
cứ quốc gia nào thỏa các điều kiện sau sẽ được cấp phép: (a) quốc gia đánh bắt
tôm mà không có bất cứ sự liên quan nào tới loài rùa biển được tìm thấy trên
vùng biển thuộc quyền tài phán của nước đó; (b) đánh bắt tôm bằng phương
pháp riêng biệt không gây hại cho loài rùa biển; hay (c) đánh bắt tôm bằng tàu
nhằm mục đích thương mại ở vùng biển thuộc quyền tài phán của nước đó nơi
mà không có loài rùa biển sinh sống. Giấy phép này cũng được cấp cho quốc gia
nài đưa ra được tài liệu chứng minh mình đã thông qua một chương trình quản lý
việc bắt ngẫu nhiên rùa biển trong quá trình đánh bắt tôm và so sánh tỷ lệ ngẫu
nhiên bắt phải rùa biển với tỷ lệ bắt của Hoa Kì. Đối với tôm nhập khẩu vào Hoa
Kì phải kèm theo một tờ khai của nhà sản xuất tôm chứng nhận rằng: (1) tôm
được bắt trong một vùng biển của quốc gia đã được cấp phép; hoặc (2) “dưới
điều kiện không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến loài rùa biển”.
4.4. Giải thích của cơ quan phúc thẩm của vụ kiện US- shrimp liên
quanđến Điều XX GATT 1994.
Mặc dù Mục 609 là một biện pháp liên quan đến việc bảo tồn các nguồn
tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt theo Điều XX GATT 1994 áp dụng không chỉ
các quốc gia nhập khẩu mà còn áp dụng đến cả sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Tuy nhiên biện pháp này lại không đáp ứng được các yêu cầu tại đoạn mở đầu
của Điều XX GATT 1994 về việc “không được tạo ra phân biệt đối xử độc đoán
hay phi lý giữa các nước có cùng điều kiện như nhau” hay tạo ra “mộ sự hạn chế
tá hình đối với thương mại quốc tế”.
Để xác định xem một biện pháp có tạo nên sự phân biệt đối xử độc đoán
hay phi lý giữa các nước có cùng điều kiện như nhau hay không, có 3 yếu tố:
Một là áp dụng biện pháp dẫn đến phân biệt đối xử, hai là sự phân biệt đối xử
phải có tính độc đoán hoặc phi lý, sự phân biệt không chỉ xảy ra giữa các quốc
gia xuất khẩu mà còn xảy ra giữa quốc gia xuất khẩu và quốc gia nhập khẩu
3
Biện pháp tạo ra sự phân biệt đối xử tùy tiện, vì:
Biện pháp qui định các nước xuất khẩu tôm qua Hoa Kì phải là tôm được
đánh bắt bằng một loại lưới thiết kế đặc biệt để không bắt nhầm rùa biển, được
áp dụng theo hướng rất khắt khe, không linh hoạt và không tính đến điều kiện
của nước nhập khẩu.
Qui trình chứng nhận các nước xuất khẩu tôm vào Hoa Kì không minh
bạch và các bên nguyên đơn đã bị Hoa Kì từ chối nguyên tắc áp dụng thực hiện
đúng các thủ tục.
Biện pháp của Hoa Kì bị xem là biện pháp tạo ra sự phân biệt đối xử vô
căn cứ hay nói cách khác là phi lý vì:
Hoa Kì đã đơn phương áp đặt một biện pháp hạn chế thương mại để bảo
vệ rùa biển mà không có nỗ lực đạt được mục đích này thông qua đàm phán một
hiệp định đa phương. Tức Hoa Kì đã đơn phương ra lệnh cấm, đặt qui định đánh
bắt như vậy mà không xét đến điều kiện khác nhau giữa các vùng lãnh thổ của
các nước thành viên và không có sự đàm phán với các bên nhập khẩu vào để có
một sự thỏa thuận thống nhất chung.
Biện pháp này yêu cầu các nước phải áp dụng “ về cơ bản một chương
trình điều chỉnh toàn diện tương tự” như chương trình mà Hoa Kì đang áp dụng
một cách thiếu linh hoạt và không tính đến các điều kiện khác nhau ở mỗi nước.
Biện pháp này đã loại bỏ luôn những con tôm được bắt bằng thiết bị lọc rùa; và
Hoa Kì đã có “sự chọn lọc” trong việc đàm phán các thỏa thuận quốc tế về nhập
khẩu tôm với các thành viên khác. Theo cơ quan phúc thẩm, tác phẩm tổng hợp
của những khác biệt này cũng tạo nên “ sự phân biệt đối xử vô căn cứ”.
( “Nguồn tài nguyên thiên nhiên” theo điều XX của GATT 1994 không chỉ bao
gồm các tài nguyên vật chất, thực vật đơn thuần là khoáng sản mà còn các loại
động vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng… như rùa biển).
5. Tóm tắt Báo cáo của Ban hội thẩm trong vụ kiện Brazil – Retread
Tyres
Các dữ kiện chính của vụ kiện (Facts)
4
Tên vụ kiện: BRAZIL – RETREAT TYRES (Brazil – Biện pháp cấm
nhập khẩu xăm lốp đã qua sử dụng)
Nguyên đơn: EC (Cộng đồng Châu Âu)
Bị đơn: Brazil
Vấn đề tranh chấp: Việc Brazil ban hành các biện pháp cấm nhập khẩu
xăm lốp đã qua sử dụng có phù hợp với các quy định bảo sức khỏe và môi
trường hay tại Điều XX GATT 1994 hay không?
Báo cáo của Ban hội thẩm
Đối với khoản tiền phạt áp đặt bởi Braxin về nhập khẩu, tiếp thị, vận
chuyển, lưu trữ, lưu giữ hoặc kho của lốp đã qua sử dụng, với NQ 3.179 được
sửa đổi bổ sung bởi NQ 3.919 không phù hợp với Điều XI:1 của GATT 1994
trong đó nó áp đặt hạn chế điều kiện liên quan đến việc nhập khẩu lốp đã qua sử
dụng và không hợp lý theo một trong hai Điều XX(b), XX(d) của GATT 1994.
Lệnh cấm nhập khẩu của Braxin có được chứng minh theo Điều XX của
GATT 1994?
Braxin tranh luận rằng lệnh cấm nhập khẩu được chứng minh theo đúng
Điều XX(b) của GATT 1994.38 EC xem xét biện pháp thì không phù hợp với
điều khoản này.
Ban hội thẩm lưu ý rằng hai bài kiểm tra được tiến hành theo Điều XX:cần
xem xét biện pháp :i) biện pháp này có thể tạm thời chứng minh thỏa mãn yêu
cầu theo một trong mười ngoại lệ cục thể được nêu ra ở tại Điều XX, và ii) việc
áp dụng biện pháp có đáp ứng yêu cầu tại “ đoạn giới thiệu của Điều XX”.
Lệnh cấm nhập khẩu của Braxin có phù hợp với Điều XX(b) của GATT
1994?
Braxin tranh luận rằng biện pháp thì phù hợp cới Điều XX(b) bởi vì nó
cần thiết để bảo vệ “ sức khỏe của con người và môi trường “ tranh rủi ro phát
sinh từ lốp xe thải ra được tích lũy lại.
Đối với biện pháp được chứng minh tạm thời theo Điều XX(b) của GATT
1994 thì:
5
- Biện pháp này phải là cần thiết để đạt được mục tiêu của chính sách đó.
- Mục tiêu của chính sách của biện pháp này phải mang tính bảo vệ cuộc
sống hoặc sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật.
Lệnh cấm nhập khẩu lốp đã qua sử dụng của Braxin là nhằm mục đích bảo
vệ sức khỏe cộng đồng cũng như bảo vệ sức khỏe động vật, bởi con người và
động vật là đối tượng dễ bị ảnh hưởng bởi các bệnh do muỗi gây nên. Lốp cũ
thải ra là điều kiện thuận lợi cho muỗi phát triển.
Biện pháp làm hạn chế thương mại:
Braxin công nhận rằng lệnh cấm nhập khẩu, bằng định nghĩa, có tác dụng
hạn chế và tuyên bố rằng nó là cần thiết để Braxin hạn chế nhập khẩu các lốp
tuổi thọ ngắn. EC cho rằng lệnh cấm nhập khẩu là biện pháp tiêu cực nhất tác
động thương mại quốc tế.
Ban hội thẩm trích dẫn báo cáo của hội đồng phúc thẩm vụ US- Shrimp
136, rằng một biện pháp cấm nhập khẩu là biện pháp nặng nhất trong các biện
pháp thương mại giữa các thành viên. Do đó, biện pháp của Braxin là làm hạn
chế thương mại.
6
Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2016
BÀI 7: CÁC QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ SỨC KHOẺ VÀ MÔI TRƯỜNG (ĐIỀU XX)
20:30
No comments
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét