Tìm kiếm trong Blog này

Thứ Tư, 25 tháng 5, 2016

PHÁP LUẬT VỀ TÊN THƯƠNG MẠI TRONG SỞ HỮU TRÍ TUỆ

dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng. 2. Chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hóa, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hóa, nhãn hàng hoá. 3. Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm các hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hóa có gắn chỉ dẫn thương mại đó.”. Trước đó, Nghị định 54/2000/NĐ-CP đã quy định về bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp, cụ thể tại các Điều 24, Điều 25, Điều 26, Điều 27 quy định cụ thể các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, nghĩa vụ chứng minh cũng như xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Theo đó: “Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc lĩnh vực sở hữu công nghiệp thì tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi đó sẽ bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.”. Chương 2. Một vài thực trạng về quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại và nhận xét 2.1. Sự khác biệt, trùng lặp và phụ thuộc lẫn nhau trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại Xét định nghĩa về nhãn hiệu và tên thương mại trong Luật sở hữu trí tuệ. Theo đó, tên thương mại là “tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”. Còn nhãn hiệu là “dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Ở đây, có thể thấy ngay sự khác biệt cũng như có sự trùng nhau giữa tên thương mại và tên nhãn hiệu. Cụ thể, tên thương mại là tên gọi còn tên nhãn hiệu là dấu hiệu. Theo một cách suy nghĩ khác thì tên thương mại thường được tiếp nhận là tên đầy đủ của công ty như ghi trong Giấy đăng ký kinh doanh còn nhãn hiệu là tên một sản phẩm hay dịch vụ nào đó do doanh nghiệp đưa ra thị trường. Đó là sự khác biệt.Tuy nhiên, theo cách suy nghĩ khác mà cụ thể là trong một số trường hợp thì tên thương mại và nhãn hiệu có thể là một. Một sự khác biệt nữa là bản thân tên thương mại có thể tự động được bảo hộ (nếu đáp ứng các tiêu chí đã được quy định) mà không cần làm thủ tục đăng ký (khoản 3 điều 6 Nghị định 103/2006/NĐ-CP) còn nhãn hiệu thì bắt buộc phải trải qua thủ tục 11 / 21 nộp đơn đăng ký (trừ trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng) và thẩm định. Phạm vi bảo hộ của tên thương mại, xét theo một khía cạnh là có thể hẹp hơn phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu (toàn lãnh thổ Việt Nam) nhưng trong một số trường hợp sẽ là tương đương như nhãn hiệu. Cụ thể, tên thương mại sẽ chỉ được bảo hộ trong một khu vực kinh doanh và định nghĩa về khu vực kinh doanh đã được xác định là “khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng”. Việc xác định khu vực kinh doanh hạn chế hay rộng lớn chính là vấn đề pháp lý phát sinh. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa tên thương mại và nhãn hiệu có thể thấy qua tiêu chí quy định về khả năng phân biệt của tên thương mại và nhãn hiệu. Tên thương mại và nhãn hiệu muốn được bảo hộ thì phải có khả năng phân biệt. Theo Điều 74 Khoản 2 Điểm k – Luật sở hữu trí tuệ thì nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu “dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;”. Ngược lại, theo Điều 78 Khoản 3 Luật Sở hữu trí tuệ thì tên thương mại chỉ được coi là có khả năng phân biệt nếu “không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác”. Chính sự phụ thuộc lẫn nhau này cũng sẽ là vấn đề pháp lý phát sinh trong tương lai và là điều mà các doanh nghiệp cần lường trước trong hoạt động thương mại. Qua các vấn đề nêu trên và thực trạng đăng ký kinh doanh tại các Sở kế hoạch đầu tư, có thể thấy rõ một số vấn đề bất cấp có thể xảy ra như sau: - Xác định thế nào là tên thương mại của doanh nghiệp – một việc tưởng dễ mà hóa khó. Việc các doanh nghiệp có tên gọi trùng nhau trong giấy đăng ký kinh doanh (cả về tên riêng, các bổ ngữ, và loại hình) trên cùng một thành phố thì không thể xảy ra nhưng là điều có thể xảy ra trên các địa bàn khác nhau do chúng ta không có một cơ quan chung chuyên cấp giấy đăng ký kinh doanh và vì vậy không thể có một cơ sở dữ liệu chung duy nhất. Tuy nhiên, việc có các doanh nghiệp chỉ khác nhau về tên gọi loại hình và các bổ ngữ (ví dụ: kinh doanh thực phẩm, chế biến nông sản, v.v.) còn trùng nhau về tên riêng là điều đã xảy ra trên cùng một địa bàn. Giải quyết các tranh chấp này là rất khó vì thiếu quy định rõ ràng. Nếu như các doanh nghiệp có các lĩnh vực kinh doanh khác nhau thì dễ phân xử, nhưng trong điều kiện phát triển kinh tế hiện nay thì điều gì sẽ xảy ra nếu các doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề hoặc các tập đoàn lớn, đa ngành nghề có thể lấy cớ là uy tín của mình để có thể đè bẹp các doanh nghiệp nhỏ khác (không may trùng tên) tại các địa bàn khác. - Quy định nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu “trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác” sẽ gây khó khăn cho việc bảo hộ nhãn hiệu vì như đã biết tên thương mại có phạm vi bảo hộ theo khu vực kinh doanh (hẹp hơn nhiều so với phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu). Vậy thì cơ quan 12 / 21 chức năng sẽ căn cứ vào đâu để xác định khu vực kinh doanh của tên thương mại. Quy định này có thể được các bên sử dụng để làm phát sinh các tranh chấp trong tương lai. Chẳng hạn có thể dùng để yêu cầu hủy bỏ hiệu lực của nhãn hiệu đang được bảo hộ. Việc này nếu xảy ra thì thực sự sẽ quá tải cho các cơ quan chức năng và nếu quá tải thì việc giải quyết tranh chấp sẽ bị đình trệ và từ đó dẫn đến thực thi pháp luật không hiệu quả. - Giả sử tên thương mại chỉ có danh tiếng trong một khu vực địa lý nhất định thì liệu một nhãn hiệu đang được bảo hộ có bị đình chỉ hiệu lực tương ứng với khu vực đó không. Chưa có quy định nào nói về vấn đề này. - Xác định đâu là tên thương mại để làm cơ sở cho việc hủy bỏ hiệu lực của một nhãn hiệu đang được bảo hộ còn là vấn đề hết sức mơ hồ. Như đã nói ở trên, thực trạng tên doanh nghiệp trong giấy đăng ký kinh doanh có thể chỉ khác nhau về loại hình, các bổ ngữ, còn vẫn trùng nhau về tên riêng. - Thực tế thẩm định các đơn nhãn hiệu tại cơ quan chức năng cũng chưa thể áp dụng quy định liên quan vì rõ ràng là thiếu quá nhiều điều kiện (không có cơ sở dữ liệu chung, không có cơ sở pháp lý để xác định tên thương mại, khu vực kinh doanh, danh tiếng .v.v.). Việc áp dụng (nếu có thể) sẽ kéo dài thời gian thời gian thẩm định lên rất nhiều (đi ngược với tiêu chí rút gọn thời gian xử lý). Tuy nhiên, sự phụ thuộc giữa nhãn hiệu và tên thương mại như đã nói ở trên vẫn sẽ được áp dụng (do đã quy định trong Luật) và đây là quy định mà các doanh nghiệp cần tính đến và tận dụng sao cho linh hoạt trong tranh chấp thương mại (kể cả với các doanh nghiệp nước ngoài). Từ những vấn đề nêu trên, có thể thấy ngay là loại hình bảo hộ nào cũng sẽ có những bát cập đặc thù. Vấn đề là doanh nghiệp khi đã nắm vững và vận dụng linh hoạt những quy định của “cuộc chơi sở hữu công nghiệp” thì quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp sẽ được đảm bảo vững chắc, ổn định. 2.2. Quy định về bảo hộ tên thương mại trong Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Doanh nghiệp Theo pháp luật về sở hữu trí tuệ hiện nay, quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại sẽ được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó mà không cần phải đăng ký với cơ quan sở hữu trí tuệ như đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý. Và cũng theo đó, tên thương mại sẽ được bảo hộ nếu có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên thương mại đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Khả năng phân biệt sẽ được đáp ứng nếu tên thương mại đó: chứa thành phần tên riêng (trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi do sử dụng); không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người khác sử dụng trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh; không trùng hoặc tương tự 13 / 21 đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử dụng. Với những đặc điểm như, tên thương mại mà một doanh nghiệp sử dụng thông thường cũng là tên doanh nghiệp đó đăng ký theo thủ tục thành lập doanh nghiệp tại Sở kế hoạch đầu tư địa phương. Nhưng cũng chính từ đây mà vấn đề bảo hộ tên thương mại trở nên khó khăn do có sự điều chỉnh của hai luật chuyên ngành: đó là Luật SHTT và Luật doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp quy định: “Tên của doanh nghiệp phải bảo đảm yếu tố kỹ thuật, không trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng ký kinh doanh; phải viết rõ loại hình doanh nghiệp: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…”. Yếu tố trùng và gây nhầm lẫn cũng được quy định ở Điều 42 Luật Doanh Nghiệp 2014. Quy định như vậy khiến cho các doanh nghiệp khác nhau khi thành lập sử dụng cùng một tên riêng và chỉ cần khác loại hình là vẫn có thể được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hoặc cùng loại hình nhưng không rơi vào các yếu tố loại trừ nêu trên thì vẫn được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Bên cạnh đó, cơ quan đăng ký kinh doanh không có hệ thống dữ liệu của cơ quan sở hữu trí tuệ, vì vậy, đã cấp rất nhiều tên doanh nghiệp có yếu tố trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với các nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý của các tổ chức, cá nhân khác. Tuy nhiên, lại không vi phạm quy định của Luật doanh nghiệp về tên công ty. Mặt khác, phạm vi bảo hộ nhãn hiệu là trên phạm vi toàn quốc, tuy nhiên, phạm vi bảo hộ của tên thương mại lại chỉ giới hạn trên phạm vi địa phương, vì vậy, có rất nhiều trường hợp cụ thể xảy ra là có hai doanh nghiệp trùng tên hoàn toàn nhau ở hai địa phương khác nhau, một doanh nghiệp đã “nhanh tay” đăng ký nhãn hiệu là một phần tên doanh nghiệp trước doanh nghiệp kia, và theo quy định, doanh nghiệp đã có nhãn hiệu được quyền sử dụng độc quyền nhãn hiệu đó trên phạm vi toàn quốc, vì vậy, doanh nghiệp có tên thương mại bị trùng sẽ có khả năng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Nhưng vấn đề đặt ra là doanh nghiệp chưa đăng ký nhãn hiệu lại được cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tên doanh nghiệp hoàn toàn phù hợp với luật doanh nghiệp, vì vậy, có thể xử lý vi phạm quyền sở hữu công nghiệp được không? và doanh nghiệp đã sở hữu nhãn hiệu có quyền yêu cầu cơ quan chức năng sửa đổi tên doanh nghiệp được không? Câu trả lời chắc chắn là không, vì pháp luật hiện hành không quy định biện pháp bắt buộc sửa đổi tên doanh nghiệp mà bản thân tên doanh nghiệp đó đã được cấp đúng. Vấn đề này cũng đang làm đau đầu các cơ quan chức năng hiện nay khi sáp nhập địa giới hành chính của toàn bộ tỉnh Hà Tây cũ vào Hà Nội, theo thông tin từ Phòng đăng ký kinh doanh, hiện tại có 772 doanh nghiệp trùng tên, vậy giải pháp nào xử lý các vấn đề nêu trên đang là câu hỏi còn bỏ ngỏ. 14 / 21 Ngoài ra, theo quy định của Luật đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài cũng đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư được cấp bởi UBND cấp tỉnh và các Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, điều này cũng dấn tới việc trùng tên giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Một vấn đề quan trọng nữa, trước khi Luật Doanh nghiệp 2014 (và Nghị định 78/2015/NĐ-CP) có hiệu lực, các doanh nghiệp đã gặp rất nhiều bất cập như: Cơ quan đăng ký doanh nghiệp không có hệ thống dữ liệu của cơ quan sở hữu trí tuệ (về tên thương mại, vì việc xác lập quyền bảo hộ tên thương mại không cần đăng ký) và không có cơ sở dữ liệu về tên thương mại của doanh nghiệp; vì vậy việc đặt tên gây nhầm lẫn là rất nhiều. Vì “khu vực kinh doanh” gần như không xác định được. Thêm nữa, vấn đề đổi tên doanh nghiệp bắt buộc - nói thì dễ như thực tế thực hiện được hay không là một vấn đề khác. Vì lúc này, Luật chỉ quy định “Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có tên trùng và tên gây nhầm lẫn tự thương lượng với nhau để đăng ký đổi tên doanh nghiệp hoặc bổ sung tên địa danh để làm yếu tố phân biệt tên doanh nghiệp” (NĐ 43/2010/NĐ-CP Điều 16 Khoản 1). Luật DN 2005 chưa quy định rõ biện pháp xử lý, cũng như chế tài Thu hồi giấy phép kinh doanh gây nhầm lẫn. Vì vậy, đã xáy ra rất nhiều trường hợp gây nhầm lẫn về tên thương mại mà không giải quyết được, cho ví dụ: Tuy nhiên, đến Luật Doanh nghiệp 2014, đi cùng là Nghị định 78/2015/NĐ-CP có hiệu lực, với việc cập nhật và giải quyết thiếu sót kịp thời, quy định cụ thể tại các Điều 17, 18, 19. Đặc biệt ở Điều 19 Khoản 6 có kèm chế tài thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp “Trường hợp cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, theo đó áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc thay đổi tên doanh nghiệp hoặc buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trong tên doanh nghiệp nhưng tổ chức, cá nhân vi phạm không thực hiện trong thời hạn do pháp luật quy định thì cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm thông báo cho Phòng Đăng ký kinh doanh để yêu cầu doanh nghiệp báo cáo giải trình theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 209 Luật Doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp không báo cáo, Phòng Đăng ký kinh doanh thực hiện thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 211 Luật Doanh nghiệp”; như vậy, Luật đã có hướng cải thiện nhằm tránh việc tên thương mại được đặt một cách tự do, gây nhầm lẫn; giúp quyền sở hữu công nghiệp trong vấn đề tên thương mại được bảo đảm hơn nhiều; đây là điều đáng ghi nhận. Trên đây là hậu quả của sự mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật khác nhau, giữa luật sở hữu trí tuệ, luật doanh nghiệp và luật đầu tư. Các nhà làm luật nên sớm 15 / 21 sửa đổi các văn bản có liên quan để việc trùng tên doanh nghiệp được ngăn chặn trên phạm vi quốc gia, từ đó tạo thuận lợi cho việc các doanh nghiệp phát triển tên thương mại và nhãn hiệu của mình trên cơ sở tên doanh nghiệp đã đăng ký. Trong lúc chờ đợi một sự thay đổi lớn trong các quy định của pháp luật, các doanh nghiệp nên có ý thức tự bảo vệ mình trong việc xây dựng tên thương mại bằng cách sử dụng các phương tiện tìm kiếm để xác định việc quyết định xây dựng tên thương mại đó liệu có phù hợp; liệu có rủi ro khi trùng với tên doanh nghiệp, tên thương mại hay thậm chí là tên miền của một chủ thể kinh doanh khác hay không… Và điều này nên được thực hiện ngay khi doanh nghiệp quyết định thành lập và đi vào hoạt động, ngay từ trong việc lựa chọn tên doanh nghiệp phù hợp. 2.3. Các cơ quan có thẩm quyền quản lý đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại Hiện nay, ở nước ta vẫn tồn tại mâu thuẫn trong quy định về các cơ quan có thẩm quyền quản lý 2 đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, đó là nhãn hiệu và tên thương mại. Việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp của 2 đối tượng này rất khác nhau: quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu do Cục SHTT cấp, còn quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó. Trên thực tế, Bộ Khoa học và Công nghệ (thông qua Cục SHTT) quản lý nhà nước đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý, trong khi đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý tên thương mại của các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp; Bộ Tài chính quản lý tên thương mại của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quản lý tên thương mại của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán… Luật SHTT giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện quản lý nhà nước về SHTT, còn các bộ khác có trách nhiệm “phối hợp” với các bộ trên trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, hiện chưa hề có một văn bản nào quy định về cơ chế phối hợp, vì vậy quy định về quản lý tên thương mại chưa thật sự chặt chẽ và cụ thể. Mối liên quan giữa nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và tên thương mại: – Điểm k khoản 2 Điều 74 Luật SHTT quy định một trong những trường hợp của nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt là “Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ”. – Khoản 3 Điều 78 Luật SHTT quy định một trong các điều kiện để xác định khả năng phân biệt của tên thương mại là “Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm 16 / 21

0 nhận xét:

Đăng nhận xét