Người sản xuất cũng có nghĩa vụ phải ghi tên thật (hoặc bút danh) của tác giả và tên
của người biểu diễn trên băng đĩa ghi âm không chỉ trên bản gốc mà còn cả trên các bản
sao từ bản gốc. Sẽ bị coi là vi phạm nghĩa vụ này, nếu nhà sản xuất không ghi tên hoặc
ghi sai tên tác giả, người biểu diễn. Trong trường hợp này, tác giả, người biểu diễn có
quyền yêu cầu người sản xuất phải cải chính công khai và có thể phải bồi thường thiệt
hại.
Bên cạnh nghĩa vụ ghi tên tác giả, người biểu diễn, người sản xuất còn có nghĩa vụ
đảm bảo sự toàn vẹn của tác phẩm, bảo đảm sự toàn vẹn của tác phẩm gốc và sự toàn vẹn
của hình tượng biểu diễn. Đối với tác phẩm gốc, nhà sản xuất không được sửa đổi, cắt
xén tác phẩm nếu không được tác giả đồng ý. Chẳng hạn nếu nhà sản xuất sử dụng một
phần ca khúc để sản xuất bản ghi âm liên khúc thì phải hỏi ý kiến của tác giả. Đối với
hình tượng biểu diễn cũng vậy, nhà sản xuất không được tiến hành các hành vi thay đổi,
xuyên tạc làm ảnh hưởng xấu tới danh dự, uy tín của người biểu diễn. Trường hợp nhà
sản xuất vi phạm nghĩa vụ đảm bảo sự toàn vẹn của tác phẩm, hình tượng người biểu
diễn, tác giả, người biểu diễn cũng có quyền yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm và bồi
thường thiệt hại.
3.4.2.
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm.
Nhà sản xuất bản ghi âm có các quyền sau:
Thứ nhất, nhà sản xuất bản ghi âm được độc quyền cho phép hoặc không cho phép
làm bản sao của bản ghi âm và phát hành sản phẩm. Có nghĩa là chỉ họ mới được quyền
nhân bản và phân phối các bản gốc và bản sao của bản ghi âm, còn mọi hành vi nhân bản
và phân phối nếu không được sự đồng ý của nhà sản xuất đều bị coi là xâm phạm quyền.
Người sản xuất có thể tự mình thực hiện độc quyền hoặc cho người khác sử dụng độc
quyền đó thông qua các hợp đồng chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng. Như vậy, việc
sao toàn bộ hoặc phần chủ yếu của một băng, đĩa ghi âm bất kể trực tiếp hay gián tiếp từ
bản định hình âm gốc mà không được nhà sản xuất đồng ý đều bị coi là xâm phạm quyền.
Độc quyền thứ hai của nhà sản xuất bản ghi âm chính là họ có quyền hưởng thù lao
khi bản ghi âm hoặc bản sao của họ được sử dụng vào mục đích thương mại. Nhà sản
xuất bản ghi âm đã đầu tư không ít công sức, kỹ thuật, tài chính để tạo ra các bản ghi âm,
lẽ đương nhiên họ phải được hưởng thành quả lao động, sáng tạo này. Họ có quyền cho
thuê, cho mượn hoặc bán bản gốc hoặc bản sao bản ghi âm để sử dụng nhằm đạt được
mục đích thương mại. Thù lao nhận được sẽ là cơ sở kích thích họ tiếp tục đầu tư sáng
tạo ra các tác phẩm có giá trị và chất lượng cao hơn. Pháp luật của các nước quy định cả
người biểu diễn và nhà sản xuất băng, đĩa ghi âm đều được hưởng thù lao từ việc cho
người khác sử dụng thành quả của mình (bản ghi âm hoặc bản sao của bản ghi âm) để sử
dụng vào mục đích kinh doanh. Tỷ lệ phân chia do các bên thoả thuận, một số nước cũng
quy định các điều kiện phân chia nhưng thông thường là theo tỷ lệ 50/50.
Cụ thể, theo Điều 30 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009, nhà
sản xuất bản ghi âm có các quyền sau:
- Nhà sản xuất bản ghi âm có độc quyền thực hiện các quyền:
+ Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm của mình;
+ Nhập khẩu, phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm của mình
thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bấy kỳ phương tiện kỹ thuật nào
mà công chúng có thể tiếp cận được.
- Nhà sản xuất bản ghi âm được hưởng quyền lợi vật chất khi bản ghi âm của mình
được phân phối đên công chúng.
3.5.
Giới hạn quyền của nhà sản xuất bản ghi âm.
Về giới hạn quyền của nhà sản xuất bản ghi âm: tương tự như các giới hạn quyền của
người biểu diễn, khi các quốc gia đưa ra các quy định về luật quốc gia, phải đảm bảo thỏa
mãn các điều kiện, gồm: các giới hạn chỉ là những trường hợp đặc biệt được quy định cụ
thể trong luật, không ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường và không gây phương hại
đến quyền của nhà sản xuất bản ghi âm. Có hai trường hợp về giới hạn quyền được quy
định tại luật Việt Nam. Trường hợp thứ nhất là việc sử dụng không cần phải xin phép,
không phải trả tiền nhuận bút, thù lao gồm việc tự sao chép một bản nhằm mục đích
giảng dạy của cá nhân, lưu trữ tại thư viện, trích dẫn hợp lí nhằm mục đích cung cấp
thông tin, giảng day. Trường hợp thứ hai là việc sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi
âm đã công bố nhằm mục đích thương mại, để phát sóng có tiền tài trợ, tiền quảng cáo
hoặc thu tiền dưới bất kì một hình thức nào, không phải xin phép nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao theo thỏa thuận kể từ khi sử dụng. Trường hợp không thỏa thuận được
thì thực hiện theo quy định của Chính phủ. Những trường hợp trên được quy định cụ thể
tại Điều 32 và Điều 33 Luật SHTT năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Trường hợp sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm đã công bố nhằm mục đích
thương mại, để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kì hình thức
nào, không phải xin phép nhưng phải trả nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng, kể từ khi sử dụng
theo quy định của chính phủ. Tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm đã công bố nhằm mục
đích thương mại trong hoạt động kinh doanh, thương mại không phải xin phép, nhưng
phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thỏa thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả,
người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng. Trường
hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của chính phủ hoặc khởi kiện ra
tòa.
3.6.
Một số hành vi xâm phạm đến quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
Trong thời hạn bảo hộ quyền của nhà sản xuất đối với bản ghi âm, mọi hành vi sao
chép không được sự đồng ý của nhà sản xuất bản ghi âm đều được coi là hành vi xâm
phạm quyền. Tuy nhiên, để đảm bảo rằng chủ sở hữu không lạm dụng những đặc quyền
dành cho họ nhằm tạo điều kiện phổ biến, sử dụng những sáng tạo nghệ thuật, pháp luật
các nước quy định một số hạn chế và ngoại lệ nhằm đảm bảo sự công bằng giữa quyền
lợi chính đáng của chủ sở hữu và người sử dụng. Theo đó, các bản ghi âm có thể được sử
dụng hạn chế (fair use). Điều này nhằm nhấn mạnh việc sao chép bản ghi âm hoàn toàn
không vì mục đích kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác
phẩm và không xâm phạm tới các quyền lợi khác của nhà sản xuất, việc sử dụng đó hoàn
toàn cho cá nhân để thưởng thức, để nghiên cứu thì không phải là hành vi xâm phạm
quyền của nhà sản xuất bản ghi âm.
Mặc dù vậy, trên thực tế việc quản lý vấn đề này gặp rất nhiều khó khăn vì nhiều khi
người ta sao chép bản ghi âm với danh nghĩa sử dụng cá nhân nhưng thực chất là bán thu
tiền, sao chép lại băng, đĩa nhạc để phát ở nhà hàng, khách sạn hay tải nhạc điện thoại,
phục vụ cho khách. Những trường hợp đó thì không thể coi là dùng cho mục đích cá nhân
được.
Ngoài ngoại lệ trên, mọi hành vi sử dụng bản ghi âm mà không có sự thoả thuận đều
được coi là hành vi xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm.
Cụ thể, theo Khoản 1, 2, 3, 5, 8 Điều 35 Luật SHTT năm 2005 sửa đổi, bổ sung
năm 2009 thì những hành vi có thể bị coi là xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi
âm là:
+ Chiếm đoạt quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
+ Mạo danh nhà sản xuất bản ghi âm;
+ Công bố, sản xuất, phân phối bản ghi âm mà không được phép của nhà sản xuất
bản ghi âm;
+ Sao chép, trích ghép đối với bản ghi âm mà không được phép của nhà sản xuất bản
ghi âm;
+ Dỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử mà không
được phép của nhà sản xuất bản ghi âm;
+ Phát sóng, phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng bản ghi âm khi biết
hoặc có cơ sở để biết thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử đã bị dỡ bỏ hoặc đã
bị thay đổi mà không được phép của nhà sản xuất bản ghi âm.
3.7.
Cơ chế bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm.
3.7.1.
Cơ chế bảo hộ quốc gia.
Đây là cơ chế bảo hộ theo đó một trong những quốc gia sẽ ban hành những quy định
đặc thù về bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm và cũng chỉ áp dụng đối với các đối
tượng của quyền của nhà sản xuất trong nước giữa các chủ thể trong nước. Hay nói cách
khác, đây là các quan hệ pháp luật về SHTT thuần tuý trong nước và không có yếu tố
nước ngoài. Tuy nhiên, xuất phát từ những khác biệt về điều kiện kinh tế, xã hội, chính
trị, lịch sử… việc xây dựng các quy định trong lĩnh vực bảo hộ quyền của nhà sản xuất
bản ghi âm cũng có nhiều điểm khác. Theo đó, các quy định về quyền của nhà sản xuất
có thể được xây dựng tương đối đầy đủ, hệ thống trong những văn bản pháp luật chuyên
ngành như Luật SHTT, Luật Bản quyền, ví dụ như ở Cộng hoà Pháp, Hoà Kỳ, Trung
Quốc, Việt Nam… Nhưng ở một số quốc gia đặc biệt là ở những nước đang phát triển và
chậm phát triển, các quy định đặc thù này lại không được tập trung trong luật riêng về
SHTT mà lại nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau như Luật Dân sự, Luật
Thương mại, Luật Hành chính hoặc các văn bản dưới luật khác.
Nhưng dù theo xu thế nào đi nữa, bằng việc xây dựng các quy phạm pháp luật, luật
quốc gia cũng đã trở thành công cụ hữu hiệu để bảo vệ các sản phẩm trí tuệ nói chung,
các bản ghi âm nói riêng, trước hết là tác phẩm của công dân nước sở tại. Tuy nhiên,
ngày nay với sự phát triển của các mối quan hệ xã hội, sự mở rộng ngày càng nhanh
trong việc giao lưu giữa các nền văn hoá trên thế giới, việc bảo hộ bản ghi âm chỉ trong
phạm vi quốc gia sẽ không thể được thực hiện hiệu quả. Thêm vào đó, xu thế toàn cầu
hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, khi thế giới chúng ta đang sống trở thành một thị
trường chung thì tất yếu phải cần đến những công cụ pháp lý hữu hiệu hơn để bảo vệ
thành quả sáng tạo của con người. Chính vì vậy cơ chế bảo hộ quốc gia sẽ luôn phải song
song tồn tại cùng cơ chế bảo hộ quốc tế.
3.7.2.
Cơ chế bảo hộ quốc tế.
Cơ chế bảo hộquốc tế là cơ chế bảo hộ không chỉ tuân theo các quy định của pháp
luật quốc gia mà việc bảo hộ còn được đảm bảo trên phạm vi quốc tế, thông qua các quy
định của các Điều ước quốc tế (ĐƯQT) song phương và đa phương.
Các ĐƯQT đa phương quan trọng để bảo hộquyền SHTT đã được ra đời từ thế kỷ
XIX. Cho đến nay, các ĐƯQT đa phương đã thực sự đóng góp vai trò quan trọng trong
việc bảo hộ quyền trên phạm vi quốc tế và được đông đảo các quốc gia gia nhập. Có thể
kể đến các ĐƯQT đa phương quan trọng trong lĩnh vực bảo hộ quyền của nhà sản xuất
bản ghi âm:
Công ước Rome 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức
phát sóng ;
Công ước Geneve về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm 29/10/1971;
Công ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm.
Các ĐƯQT song phương ra đời sớm hơn so với các ĐƯQT đa phương, khi các điều
ước đa phương chưa ra đời thì đây là hình thức được nhiều quốc gia áp dụng để bảo hộ
cho các nhà sản xuất là công dân nước mình khi tác phẩm của họ vượt ra ngoài biên giới
quốc gia. Hiện nay, tuy đã là thành viên của nhiều ĐƯQT đa phương về quyền của nhà
sản xuất bản ghi âm nhưng đại đa số các quốc gia vẫn rất coi trọng việc ký kết các ĐƯQT
song phương. Các thoả thuận quốc tế về quyền của nhà sản xuất giữa hai quốc gia thường
được ghi nhận trong các hiệp định về quyền tác giả hoặc các hiệp định thương mại giữa
các nước.
Nói tóm lại, các ĐƯQT cùng với pháp luật quốc gia giữ vai trò quan trọng trong
việc bảo hộ quyền SHTT trên phạm vi toàn cầu. Chúng không chỉ là công cụ pháp lý
quan trọng để bảo vệ những thành quả sáng tạo của con người mà còn giúp các tác giả,
chủ sở hữu quyền tác giả, những nghệ sỹ biểu diễn, các nhà sản xuất bản ghi âm, các tổ
chức phát sóng có khả năng thu hồi một cách có hiệu quả những chi phí đã bỏ ra để đầu
Thứ Tư, 25 tháng 5, 2016
BẢO HỘ QUYỀN CỦA NHÀ SẢN XUẤT BẢN GHI ÂM, GHI HÌNH
18:31
No comments
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét