- Về nội dung tên, địa chỉ của người khởi kiện: Quyền khởi
kiện vụ án dân sự có thể do chủ thể tranh chấp tự mình thực hiện
hoặc thông qua người đại diện hợp pháp. Cá nhân có đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
không mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc
giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình thì họ là người khởi
kiện. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn khởi kiện
phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân đó. Cá nhân là người chưa
thành niên (trừ trường hợp nêu trên), người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện
theo pháp luật của họ là người khởi kiện. Tại mục tên, địa chỉ của
người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của người đại
diện theo pháp luật của cá nhân đó. Xác định cá nhân bị mất năng
lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải bằng
quyết định có hiệu lực của Tòa án. Đối với cơ quan, tổ chức khởi
kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức làm đơn khởi
kiện nên tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ
của cơ quan, tổ chức và họ tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp
của cơ quan, tổ chức. Người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức
là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền.
Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định trong điều lệ
của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
Cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích nhà nước là các cơ quan nhà nước, tổ chức theo
quy định tại Điều 162 BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP. Đó là các cơ quan, tổ chức: Cơ quan về dân
số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ; Công đoàn cấp trên
của công đoàn cơ sở; Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu
Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh
vực mình phụ trách (Cơ quan Tài nguyên và Môi trường; Cơ quan
Văn hoá - Thông tin...). Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện
phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ tên, chức vụ của
người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó.
11
- Về nội dung tên, địa chỉ của người bị kiện; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan: Đơn khởi kiện phải ghi đầy đủ, cụ thể tên,
địa chỉ của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Thẩm phán cần phải đặc biệt chú ý kiểm tra địa chỉ của người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xác định chính xác
địa chỉ của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi ở giai đoạn thụ lý vụ án là việc xác
định có đủ điều kiện khởi kiện hay không và xác định thẩm quyền
thụ lý vụ án theo lãnh thổ, theo cấp tòa án, bảo đảm cho Tòa án
thực hiện đúng các thủ tục tố tụng như thông báo cho họ biết việc
khởi kiện của nguyên đơn để họ được quyền tham gia tố tụng, thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng như khai báo, cung cấp chứng
cứ trước tòa án, đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; đảm bảo
việc giải quyết vụ án được chính xác, đúng đắn.
Thẩm phán cần phải có kỹ năng và phương pháp mới xác
định được chính xác địa chỉ của người bị kiện; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Theo đó, địa chỉ của người bị kiện; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là nơi cư trú, làm việc của người đó
(nếu người bị kiện là cá nhân) hoặc nơi có trụ sở (nếu người bị
kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức).
Nếu không xác định được nơi cư trú, làm việc, trụ sở của người bị
kiện và người khởi kiện lựa chọn Tòa án theo quy định tại điểm a,
khoản 1 Điều 36 BLTTDS thì địa chỉ của người bị kiện; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là nơi cư trú, làm việc cuối cùng, nơi
có trụ sở cuối cùng. Nơi cư trú của cá nhân được xác định theo
nguyên tắc được quy định tại Điều 52 BLDS 2005 và Điều 12 Luật
Cư trú là nơi người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không
xác định được nơi cư trú của cá nhân là nơi thường xuyên sinh sống
thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống. Nơi cư trú của công
dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Nơi cư trú của người chưa
thành niên; nơi cư trú của người được giám hộ; nơi cư trú của vợ,
chồng; nơi cư trú của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân và Công
an nhân dân, nơi cư trú của người làm nghề lưu động được xác định
theo quy định tại Điều 53, 54, 55, 56, 57 BLDS 2005 và Điều 13,
14,15,16, 17 Luật Cư trú.
12
Thẩm phán cần yêu cầu người khởi kiện cung cấp xác nhận
của cơ quan có thẩm quyền về địa chỉ của người bị kiện; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Về vấn đề này mặc dù BLTTDS
không quy định, Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP cũng không có
hướng dẫn người khởi kiện phải xuất trình thêm văn bản xác nhận
của cơ quan có thẩm quyền về địa chỉ của người bị kiện, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng ở góc độ thực tiễn cũng như kỹ
năng nghề nghiệp điều đó là cần thiết để tránh tình trạng sau khi thụ
lý vụ án, đương sự cũng như Tòa án đã phải bỏ nhiều công sức,
thời gian và chi phí nhưng sau đó Tòa án lại phải ra quyết định đình
chỉ việc giải quyết vụ án.
Đối với trường hợp xác định được địa chỉ của người bị kiện;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi khởi kiện nhưng họ không
có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú mà không
thông báo địa chỉ mới cho người khởi kiện nhằm mục đích giấu địa
chỉ, trốn tránh nghĩa vụ thì cần xác định đây là trường hợp cố tình giấu
địa chỉ, không thuộc vào trường hợp không xác định được địa chỉ của
người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Đối với nội dung “những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải
quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Khi kiểm tra nội dung này ngoài việc xem xét nội dung tranh
chấp người khởi kiện trình bày thì cần lưu ý đối với yêu cầu của
người khởi kiện. Yêu cầu của người khởi kiện trong đơn khởi kiện
phải là yêu cầu về nội dung, không phải là yêu cầu về tố tụng. Có
trường hợp người khởi kiện yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong đơn khởi kiện như yêu cầu kê biên tài sản tranh
chấp. Yêu cầu này là yêu cầu về tố tụng. Mặc dù theo quy định của
pháp luật tố tụng dân sự người khởi kiện có quyền nộp đơn yêu cầu
Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện nhưng thủ tục yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được thực hiện độc
lập theo quy định tại Điều 117 BLTTDS.
Yêu cầu của người khởi kiện phải cụ thể, rõ ràng. Điều này có
ý nghĩa trong việc xác định tiền tạm ứng án phí người khởi kiện
phải nộp. Tránh tình trạng kiểm tra không kỹ nên thụ lý vụ án khi
13
yêu cầu của người khởi kiện trong đơn khởi kiện chỉ nêu chung
chung như yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật
hoặc chỉ trình bày nội dung tranh chấp mà không yêu cầu Tòa án
giải quyết cụ thể yêu cầu như thế nào. Điều này rất quan trọng bởi
lẽ là cơ sở để Tòa án xác định ban đầu quan hệ pháp luật phát sinh
tranh chấp và có mối quan hệ mật thiết với các tài liệu, chứng cứ
mà người khởi kiện phải nộp kèm theo đơn khởi kiện mà Tòa án
phải kiểm tra.
3.2. Kiểm tra các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện
Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo là điều kiện về
thủ tục của việc khởi kiện. Chính vì vậy, sau khi kiểm tra đơn khởi
kiện, Thẩm phán phải kiểm tra các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn.
Về phương diện kỹ năng nghiệp vụ, Thẩm phán phải đối chiếu các
tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện với nội dung và hình thức
đơn khởi kiện để xác định tính đầy đủ và tính hợp pháp của các tài
liệu, chứng cứ.
3.2.1. Kiểm tra tính đầy đủ của tài liệu, chứng cứ
Xác định những giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn khởi kiện phù
hợp với nội dung tranh chấp, yêu cầu khởi kiện và người khởi kiện
là cá nhân hay cơ quan, tổ chức là một kỹ năng rất quan trọng của
Thẩm phán. Thẩm phán phải nghiên cứu từ đơn khởi kiện để xác
định các giấy tờ, tài liệu cần thiết làm cơ sở cho việc thụ lý vụ án.
Thông thường các tài liệu, chứng cứ bao gồm các nhóm sau:
- Các giấy tờ, tài liệu nhằm xác định tư cách pháp lý của
người khởi kiện và ký đơn khởi kiện. Các giấy tờ tài liệu này đối với
trường hợp cá nhân khởi kiện và cơ quan, tổ chức khởi kiện là khác
nhau. Cá nhân khởi kiện thì thường là chứng minh thư nhân dân,
giấy khai sinh, sổ hộ khẩu gia đình. Nếu là cơ quan, tổ chức thì
thường là quyết định thành lập cơ quan, giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, Điều lệ hoạt động của doanh nghiệp; Quyết định bổ
nhiệm hoặc biên bản bầu người đại diện theo pháp luật…, văn bản
ủy quyền (nếu có).
- Các giấy tờ, tài liệu chứng minh giữa các bên xác lập quan
hệ pháp luật dẫn đến tranh chấp: giấy chứng nhận kết hôn, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu tài
14
sản, giấy chứng tử; hợp đồng, phụ lục hợp đồng, hóa đơn, chứng
cứ, giấy biên nhận tiền, thanh lý hợp đồng…
- Các giấy tờ, tài liệu chứng minh quá trình thực hiện quyền
và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật phát sinh tranh
chấp như giấy biên nhận tiền, giấy tờ về giao hàng phiếu thu, hóa
đơn, văn bản đối chiếu công nợ, biên bản xác định thiệt hại…
- Các giấy tờ, tài liệu về thủ tục tiền tố tụng như biên bản hòa
giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai, văn bản xác định hành vi trái
pháp luật của người thi hành công vụ theo quy định của pháp luật
trách nhiệm bồi thường Nhà nước… Các giấy tờ, tài liệu này chỉ áp
dụng đối với một số tranh chấp như tranh chấp đất đai, tranh chấp về
bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ của nhà nước gây ra…
Cần lưu ý, ở thời điểm này người khởi kiện chỉ phải nộp các
tài liệu, chứng cứ ban đầu chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có
căn cứ và hợp pháp chứ không phải yêu cầu đương sự phải nộp đủ
ngay các tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án. Do vậy, Thẩm phán
được phân công xem xét việc thụ lý vụ án cần phân biệt sự khác
nhau giữa yêu cầu người khởi kiện phải nộp đủ tài liệu, chứng cứ
kèm theo để giải quyết vụ án với yêu cầu nộp đủ tài liệu, chứng cứ
để thụ lý vụ án để tránh gây phiền hà cho đương sự. Từ đó cần xác
định tính đầy đủ của tài liệu, chứng cứ phải đặt trong bối cảnh đủ
để thụ lý vụ án vì quá trình giải quyết vụ án đòi hỏi các chứng cứ
được thu thập ở những thời điểm khác nhau, từ nhiều nguồn khác
nhau theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
3.2.2. Kiểm tra tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ
Đủ tài liệu, chứng cứ mới là điều kiện “cần” để Tòa án thụ lý
vụ án thì các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện phải
hợp pháp. Khi kiểm tra để xác định tính hợp pháp của tài liệu,
chứng cứ mà người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện Thẩm
phán cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Các tài liệu đọc được nội dung được coi là hợp pháp nếu là
bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc
do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Nếu người
khởi kiện chỉ có một bản duy nhất thì trong thực tế về mặt kỹ năng
Thẩm phán có thể sử dụng bản sao và ghi rõ đã đối chiếu với bản
15
chính thì cũng được coi là hợp pháp. Giấy tờ, tài liệu do cơ quan có
thẩm quyền nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận theo quy định của
pháp luật nước ngoài hoặc ở ngoài lãnh thổ Việt Nam được xác
định là hợp pháp nếu giấy tờ, tài liệu đó đã được hợp pháp hoá lãnh
sự, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập có quy định khác. Giấy tờ, tài liệu lập bằng tiếng dân tộc thiểu
số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được
công chứng, chứng thực hợp pháp.
- Các tài liệu nghe được, nhìn được (băng ghi âm, đĩa ghi âm,
băng ghi hình, đĩa ghi hình) được coi là hợp pháp nếu được xuất
trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn
bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
- Vật chứng được coi là hợp pháp phải là hiện vật gốc liên
quan đến vụ việc.
- Tập quán được coi là coi là hợp pháp nếu được cộng đồng
nơi có tập quán đó thừa nhận.
Qua kiểm tra, nếu tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện
không đáp ứng các điều kiện nêu trên thì Thẩm phán phải hướng dẫn
cho người khởi kiện thực hiện đúng quy định của pháp luật.
3.3. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; bổ sung tài
liệu, chứng cứ
Sau khi kiểm tra, nếu xét thấy đơn khởi kiện không đầy đủ các
nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 164 BLTTDS và tài liệu,
chứng cứ còn thiếu hoặc không phù hợp thì Toà án thông báo cho
người khởi kiện biết. Việc thông báo phải được lập thành văn bản
và nêu rõ, cụ thể những nội dung còn thiếu trong đơn khởi kiện,
những tài liệu, chứng cứ cần bổ sung đồng thời yêu cầu họ sửa đổi,
bổ sung trong một thời hạn cụ thể nhưng không quá ba mươi ngày;
trong trường hợp đặc biệt có thể gia hạn nhưng không quá mười
lăm ngày. Trong thông báo phải xác định rõ hậu quả của việc
không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; bổ sung tài liệu, chứng cứ
đúng thời hạn. Hậu quả thường là trả lại đơn, tài liệu chứng cứ kèm
theo và coi như không có việc khởi kiện. Thông báo được giao trực
tiếp cho đương sự hoặc gửi qua đường bưu điện. Việc giao hoặc gửi
này phải có sổ theo dõi. Thời gian thực hiện việc sửa đổi, bổ sung
16
Thứ Ba, 31 tháng 5, 2016
Kỹ năng giải quyết các vụ việc dân sự (Chương trình đào tạo Thẩm phán)
11:31
No comments
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét