Tìm kiếm trong Blog này

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2016

BÀI 13: CÁC QUY ĐỊNH VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ (GATS)

Thương mại dịch vụ là một phần quan trọng của chính sách phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, dịch vụ vẫn là một lĩnh vực “khép kín” hơn so với thương mại hàng hóa và việc tự do hoá thương mại dịch vụ xuất hiện trễ hơn rất nhiều so với thương mại hàng hoá là xuất phát từ những đặc tính của các sản phẩm dịch vụ và vai trò nhạy cảm của nó với nền kinh tế. Thứ nhất, mặc dù chưa có một định nghĩa thống nhất cho khái niệm dịch vụ nhưng chúng ta có thể nhìn nhận dịch vụ là sản phẩm khác biệt rõ ràng với hàng hóa thông thường. Sự khác biệt này thể hiện ở tính chất vô hình, quá trình sản xuất và phương thức mua bán của dịch vụ. Thật khó để xây dựng hàng rào thương mại giống như đối với hàng hóa, chẳng hạn hàng rào thuế quan tại biên giới, ta khó có thể xác định số lượng của dịch vụ để xác định thuế xuất nhập khẩu, hoặc dịch vụ có thể được sản xuất và cung ứng qua biên giới quốc gia theo nhiều phương thức,... Vì vậy mà phức tạp hơn nhiều. Thứ hai, có nhiều ngành dịch vụ được coi là thuộc phạm vi độc quyền nhà nước (bưu chính viễn thông, hàng không,...) và một số ngành dịch vụ thì không cho phép đầu tư nước ngoài (khai thác năng lượng, khoáng sản,...) vì vậy mà tự do hóa thương mại dịch vụ có ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thống pháp luật trong nước và cơ cấu kinh tế của quốc gia. Thêm vào đó trình độ phát triển các ngành dịch giữa các quốc gia không đồng đều cũng góp phần vào việc làm cho quá trình đàm phán dịch vụ trở nên rất khó khăn và nhạy cảm đối với chính phủ các nước, đồng thời cũng làm cho các điều ước, hiệp ước quốc tế về thương mại dịch vụ có nội dung phức tạp. 4. Những loại hình dịch vụ nào có thể thương mại và loại nào không thể? GATS điều chỉnh tất cả các loại hình thương mại dịch vụ trừ các loại hình dịch vụ không thể thương mại như : • Các dịch vụ của Chính phủ (ví dụ các chương trình an sinh xã hội và các dịch vụ công khác như y tế, giáo dục,… được cung cấp dựa trên các điều kiện phi thị trường). Những dịch vụ này được cung cấp không trên cơ sở thương mại và không cạnh tranh với các nhà cung cấp dịch vụ khác; 2 • Một số dịch vụ thuộc lĩnh vực vận tải hàng không (ví dụ quyền lưu không và các dịch vụ liên quan trực tiếp đến quyền lưu không). Như vậy, có thể hiểu là những loại hình dịch vụ không thể thương mại là các dịch vụ GATS không điều chỉnh, còn các loại hình dịch vụ khác là các loại hình dịch vụ có thể thương mại. 5. Vì sao đối với thương mại dịch vụ các quốc gia không thể ban hành một khoản thuế quan để kiểm soát dịch vụ như hàng hoá? Đối với thương mại dịch vụ, các quốc gia không thể ban hành một khoản thuế quan để kiểm soát dịch vụ như một hàng hóa bởi vì trong thương mại dịch vụ các quốc gia không thể xác định được cụ thể số lượng bao nhiêu dịch vụ và chất lượng dịch vụ như thế nào để tính thuế. Mặt khác khi tính thuế quan (thuế ở cửa khẩu hải quan) thì hàng hóa phải có sự dịch chuyển qua biên giới của quốc gia nhập khẩu nhưng về dịch vụ thì không nhất thiết phải có, dịch vụ có thể không có sự dịch chuyển từ quốc gia xuất khẩu qua quốc gia nhập khẩu nên khó có thể kiểm soát được tình hình nhập khẩu và xác định được một loại thuế quan cụ thể cho dịch vụ. 6. Biểu cam kết mở cửa thị trường của hàng hoá khác như thế nào so với dịch vụ? Biểu cam kết mở cửa thị trường Khái niệm Số lượng cột trong biểu cam kết Tiêu đề các cột GATT GATS Biểu nhân nhượng thuế quan là cam kết không áp dụng mức thuế quan đối với một sản phẩm nhất định cao hơn mức thuế được ghi nhận trong biểu nhân nhượng thuế quan. 7 Cột 1: Mã hàng; Cột 2: Mô tả hàng hóa; 3 Biểu cam kết dịch vụ của một nước là tập hợp tất cả các cam kết cụ thể của nước đó về mức độ mở cửa trong từng ngành, phân ngành dịch vụ. 4 Cột 1: Cột mô tả ngành/phân ngành; Cột 2: Cột nêu các cam kết mang tính Thông tin trong biểu cam kết Cột 3: Thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập áp dụng cho mã hàng đó; Cột 4: Thuế suất cam kết cắt giảm; Cột 5: Thời hạn thực hiện; Cột 6: Quyền đàm phán ban đầu; Cột 7: Phụ thu nhập khẩu. Là những con số cụ thể, thể hiện việc cam kết cắt giảm với từng loại hàng hóa cụ thể. hạn chế về tiếp cận thị trường; Cột 3: Cột nêu các cam kết mang tính hạn chế về đối xử quốc gia; Cột 4: Cột cam kết bổ sung. Không phải là những con số mà là những cam kết với những nội dung khác nhau ở những lĩnh vực dịch vụ khác nhau. Nhưng cơ bản là có những nội dung sau: Cam kết toàn bộ; Cam kết kèm theo những hạn chế; Không cam kết; hoặc Không cam kết vì không có tính khả thi kỹ thuật. 7. GATS bao gồm những nhóm quy định chính nào? GATS được chia thành 2 nhóm quy định chính: (i) Các nguyên tắc và quy tắc chung được áp dụng cho tất cả các lĩnh vực dịch vụ; (ii) Những quy định riêng cho từng lĩnh vực dịch vụ cụ thể, gồm quy định về đi lại của các nhà cung ứng dịch vụ, dịch vụ vận chuyển hàng không, dịch vụ tài chính, dịch vụ vận chuyển hàng hải và dịch vụ viễn thông nằm trong phần Phụ lục; Ngoài ra, GATS còn bao gồm các cam kết cụ thể của từng quốc gia thành viên về điều kiện tiếp cận thị trường trong từng ngành và phân ngành dịch vụ cụ thể; các biên bản, nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng liên quan tới việc áp dụng hiệp định cho từng ngành dịch vụ. 8. Nguyên tắc MFN và NT của GATS khác như thế nào so với GATT, phân tích các yếu tổ cần phải xem xét để chứng minh vi phạm? Nguyên tắc MFN và NT của GATS mềm dẻo hơn so với GATT 1994. Mặc dù cả GATS và GATT 1994 đều quy định nhà cung cấp một dịch vụ hoặc hàng hóa độc quyền nào trên lãnh thổ của một nước thành viên không được phép hành động trái với các nghĩa vụ của thành viên liên quan tới thực hiện quy chế Tối huệ quốc (MFN). Tuy nhiên khác với nội dung MFN trong khuôn khổ GATT 1994, chế độ MFN trong khuôn khổ GATS: Các quốc gia thành viên có thể đưa ra danh mục ngoại lệ trong việc áp dụng chế độ đối xử MFN theo quy định tại điều II:1. Theo 4 quy định của điều II:2 GATS: “các thành viên có thể duy trì biện pháp không phù hợp với quy định tại khoản I của điều này, với điều kiện là biện pháp đó phải được liệt kê và đáp ứng các điều kiện của phụ lục về các ngoại lệ đối với điều II”. Nghĩa vụ đối xử Quốc gia (NT) được quy định tại điều XVII của GATS về cơ bản khác với nghĩa vụ đối xử quốc gia được quy định trong GATT 1994. Trong khi nghĩa vụ đối xử quốc gia trong điều III GATT 1994 được áp dụng cho các biện pháp ảnh hưởng đến thương mại hàng hóa thì nghĩa vụ quốc gia theo điều XVII của GATS chỉ áp dụng cho các nước thành viên thể hiện một cách rõ ràng là dành nghĩa vụ đối xử cho từng lĩnh vực cụ thể. Các nước thành viên WTO sẽ cam kết ở cột nghĩa vụ đối xử quốc trong “Biểu cam kết dịch vụ cụ thể”. Các nước cam kết nghĩa vụ đối xử quốc gia như thế nào phụ thuộc vào quá trình đàm phán. Vì vậy, về nguyên tắc một nước thành viên WTO có thể tự do quyết định cam kết và trong trường hợp đưa ra cam kết thì có thể hạn chế phạm vị áp dụng bằng đối xử quốc gia thông qua việc đặt ra các điều kiện. “Biểu cam kết dịch vụ cụ thể” là một phần không tách rời của hiệp định GATS còn trong GATT 1994 thì không. Để xác định liệu một biện pháp của thành viên WTO có phù hợp với nghĩa vụ đối xử MFN theo II:1 của GATS hay không có 3 câu hỏi cần được trả lời: 1. Hiệp định GATS có áp dụng đối với các biện pháp đang được tranh chấp hay không? 2. Dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ có liên quan có phải là “dịch vụ tương tự” hay người cung cấp “dịch vụ tương tự” không? 3. Dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ của các thành viên WTO có phần được đối xử không kém phần thuận lợi hơn sự đối xử dành cho dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước thành viên nào ngay lập tức và vô điều kiện không? Khi một nước thành viên WTO đưa ra một cam kết dành đối xử quốc gia trong một lĩnh vực dịch vụ cụ thể thì 3 câu hỏi cần được trả lời để xác định liệu một biện pháp của nước thành viên đó có phù hợp với nghĩa vụ này hay không? Cụ thể là: 1. Hiệp định GATS có áp dụng cho biện pháp đó không? 5 2. Dịch vụ nước ngoài hoặc dịch vụ trong nước hoặc người cung cấp dịch vụ có phải là “dịch vụ tương tự” hoặc “ người cung cấp dịch vụ tương tự” không ? 3. Dịch vụ nước ngoài và người cung cấp dịch vụ nước ngoài có được dành sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho dịch vụ trong nước và người cung cấp dịch vụ trong nước không? 9. Phân tích mối liên hệ giữa Điều VI, Điều XVII và Điều XVI của GATS? Điều VI GATS điều chỉnh về các quy định pháp luật trong nước theo đó GATS công nhận chủ quyền của các thành viên đưa ra những quy định điều chỉnh các dịch vụ trong. Trước hết, Hiệp định ngăn cấm mọi sự phân biệt đối xử giữa trong và ngoài nước và giữa những người nước ngoài với nhau trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Tiếp đến, Hiệp định còn cố gắng thúc đẩy tính công khai (công chúng có thể tiếp cận được mọi quy định). Ðiều VI yêu cầu bảo đảm nguyên tắc chung, theo đó những biện pháp nội bộ phải được quản lý một cách khách quan, không thiên vị và hợp lý. Những nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài có thể phản đối các quyết định hành chính trước tòa án và được thông báo về kết quả của việc xem xét các yêu cầu của họ. Yêu cầu xin được cung cấp dịch vụ phải được giải quyết trong một thời hạn hợp lý. Các quy định và thể thức về yêu cầu chất lượng cũng như chuẩn mực kỹ thuật, vấn đề cấp phép không được trở thành những cản trở không cần thiết cho thương mại dịch vụ. Ngoài ra, các quy định trong nước cần tuân thủ những quy tắc nhất định nhằm bảo đảm rằng những quy định đó: (1) dựa trên cơ sở những tiêu chí khách quan và minh bạch như thẩm quyền và năng lực cung cấp dịch vụ; (2) không quá khắt khe hơn mức cần thiết cho việc bảo đảm chất lượng dịch vụ; và (3) vấn đề thủ tục xin giấy phép không gây ra trở ngại đối với cung cấp dịch vụ. Điều XVI GATS điều chỉnh về hàng rào tiếp cận thị trường theo đó mỗi thành viên cần “dành cho các dịch vụ và những người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử đã được quy định trong việc áp dụng các thể thức, giới hạn và các điều kiện thỏa thuận và nêu cụ thể trong danh sách cam kết đặc biệt của mình''''. Như vậy, điều khoản trên cấm việc duy trì các cản trở đối với việc tiếp cận thị trường mà không được GATS cho phép và bảo đảm cho việc áp dụng các điều kiện tương tự đối với tất cả các dịch vụ và 6

1 nhận xét: